Một số kinh nghiệm trong tạo nguồn dự bị động viên ở tỉnh Bắc Giang

ThS. Nguyễn Trường Hải
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Tạo nguồn dự bị động viên là một quá trình quan trọng xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, sẵn sàng bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội khi cần thiết nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước, bao gồm việc xây dựng lực lượng dự bị động viên và các nguồn lực dự bị khác để sẵn sàng đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.

Từ khóa: Tạo nguồn dự bị động viên, quân nhân dự bị, tỉnh Bắc Giang.

1. Đặt vấn đề

Với quan điểm chủ trương của Đảng là xây dựng quân đội theo hướng “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu có số lượng hợp lý, chất lượng cao, đáp ứng đủ yêu cầu biên chế cho các đơn vị dự bị động viên. Trong đó, xác định việc xây dựng và tạo nguồn dự bị động viên là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược quân sự địa phương. Trong thời gian qua, công tác tạo nguồn dự bị động viên của tỉnh Bắc Giang đã đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng động viên chiến đấu của địa phương.

2. Một số kết quả đạt được

Theo số liệu báo cáo, chỉ tính trong giai đoạn 2010 – 2020, tỉnh Bắc Giang đã ban hành và triển khai đồng bộ nhiều chủ trương, chính sách về công tác quốc phòng, quân sự địa phương. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh đã ban hành các kế hoạch, chỉ thị cụ thể về tạo nguồn dự bị động viên, phù hợp với điều kiện thực tiễn từng địa phương, đơn vị, trong đó xác định “hằng năm tổ chức chặt chẽ việc đăng ký, quản lý nguồn dự bị động viên, phương tiện kỹ thuật, sẵn sàng huy động khi có lệnh động viên”1.  

Lực lượng vũ trang tỉnh đã tham mưu chặt chẽ, chủ động phối hợp với các sở, ban, ngành và chính quyền địa phương thực hiện tốt công tác tạo nguồn dự bị động viên, trong đó: làm tốt công tác tạo nguồn tuyển quân gắn với địa bàn động viên theo từng vùng đơn vị dự bị động viên. Đây là một nội dung quan trọng nhằm bảo đảm tính chủ động, kịp thời và hiệu quả trong xây dựng lực lượng dự bị động viên.

Việc tổ chức tuyển quân được quy hoạch và phân bổ hợp lý theo từng địa bàn gắn với từng đơn vị dự bị động viên cụ thể, phù hợp với đặc điểm kinh tế – xã hội và dân cư của từng vùng. Trên cơ sở đó, từng địa phương đã xác định rõ số lượng, chất lượng thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ, phân bổ nguồn tuyển quân theo địa bàn đã được quy định trong kế hoạch động viên quốc phòng.

Việc tạo nguồn trên cơ sở tuyển quân gắn với địa bàn theo vùng động viên thực chất là biện pháp tạo nguồn theo địa chỉ, theo biên chế tổ chức gần, gọn các đơn vị dự bị động viên của các địa phương nhằm nâng cao chất lượng đơn vị dự bị động viên đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trong tình hình mới. Cách làm này giúp tăng cường mối liên kết giữa địa phương và đơn vị quân đội, thuận lợi trong công tác huấn luyện, quản lý và huy động khi có tình huống. Đồng thời, góp phần nâng cao chất lượng nguồn tuyển quân, bảo đảm yếu tố “gần, gọn địa bàn”, tránh tình trạng chắp vá, dàn trải nguồn lực.

Hằng năm, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành quyết định giao chỉ tiêu gọi công dân nhập ngũ đến các địa phương. Trong quy hoạch địa bàn gọi công dân nhập ngũ đã chú trọng vào các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người và vùng đồng bào có tôn giáo; xóa “xã trắng” thời gian dài không có người nhập ngũ. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các đơn vị dự bị động viên theo nguyên tắc gần, gọn địa bàn.

Công tác tạo nguồn từ hạ sĩ quan binh sĩ trước khi xuất ngũ đã đạt nhiều kết quả tích cực. Đây là phương pháp cơ bản quan trọng đã được tiến hành ở một số đơn vị, góp phần xây dựng lực lượng dự bị động viên. Các đơn vị quân đội và địa phương đã chủ động phối hợp rà soát, lập danh sách, phân loại và lựa chọn số hạ sĩ quan, binh sĩ chuẩn bị xuất ngũ ở các địa phương để đào tạo sĩ quan dự bị; huấn luyện chuyển loại binh chủng từ chiến sĩ sắp hết hạn nghĩa vụ quân sự trước khi xuất ngũ về địa phương. Đây là nguồn có phẩm chất chính trị, ý thức tổ chức kỷ luật, trình độ quân sự cơ bản và kinh nghiệm thực tế, đáp ứng yêu cầu sẵn sàng huy động khi cần thiết.

Biện pháp tạo nguồn có tác dụng tốt đến việc xây dựng lực lượng và nâng cao chất lượng nguồn hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị giúp các địa phương điều chỉnh nguồn các đơn vị dự bị động viên do có sự biến động tự nhiên, quá tuổi phải giải ngạch hoặc di chuyển địa bàn cư trú. Đặc biệt, điều chỉnh, bổ sung chuyên nghiệp quân sự cho các đơn vị binh chủng góp phần nâng cao số lượng, chất lượng cho các đơn vị dự bị động viên.

Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh đã xây dựng kế hoạch cụ thể về số lượng, chất lượng, nhu cầu chuyên nghiệp quân sự ở các đơn vị dự bị động viên của các địa phương sau năm thứ nhất của hạ sĩ quan binh sĩ. Xây dựng kế hoạch huấn luyện, xác định thời gian cần thiết, làm tốt công tác điều chỉnh biên chế, bảo đảm cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và huấn luyện ở các đơn vị. Mặt khác, chú trọng làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với các đối tượng trước khi gọi huấn luyện tạo nguồn để tránh tư tưởng ngại khó trong những tháng cuối thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Thực hiện tốt công tác chính sách đối với các hạ sĩ quan, binh sĩ trước khi xuất ngũ, động viên, khích lệ tinh thần hăng hái tham gia các hoạt động xây dựng lực lượng dự bị động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho các quân nhân khi xuất ngũ có ngành nghề, việc làm, nơi cư trú ổn định. Nhiều địa phương đã tổ chức tư vấn, định hướng nghề nghiệp gắn đăng ký dự bị động viên với giới thiệu việc làm cho quân nhân xuất ngũ, giúp họ ổn định cuộc sống và sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ khi có lệnh huy động. Nhờ đó, chất lượng và số lượng nguồn dự bị động viên từng bước được nâng cao, cơ bản bảo đảm đúng, đủ chỉ tiêu theo kế hoạch.

Trước thực trạng thiếu hụt nguồn quân nhân dự bị hạng 1, vấn đề tạo nguồn quân dự bị bằng huấn luyện chuyển hạng dự bị là một biện pháp cần thiết, mang tính chủ động của các địa phương và đơn vị nhằm góp phần bổ sung và nâng cao chất lượng đội ngũ hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị hạng 1.

Các địa phương đã chủ động phối hợp với cơ quan quân sự tổ chức huấn luyện chuyển hạng dự bị cho công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự nhất là những người có trình độ văn hóa, sức khỏe tốt, phẩm chất chính trị rõ ràng. Đã tổ chức các khóa huấn luyện chuyển loại từ quân nhân dự bị hạng 2 lên hạng 1 đạt 74,7%, từng bước giải quyết một phần nguồn dự bị hạng 1 còn thiếu. Qua các khóa huấn luyện, lực lượng này được trang bị những kiến thức về quân sự, hậu cần, kỹ thuật, giáo dục chính trị, pháp luật theo quy định, có kỹ năng chiến đấu, kỷ luật quân đội và ý thức quốc phòng.

Công tác tạo nguồn sĩ quan dự bị được tiến hành chặt chẽ thông qua kế hoạch tạo nguồn sát với nhu cầu biên chế thực tế của các đơn vị dự bị động viên nhằm khắc phục thiếu hụt về nguồn sĩ quan dự bị, nhất là cán bộ giữ chức vụ quản lý đơn vị dự bị động viên.

Hằng năm, căn cứ vào kế hoạch của Quân khu và tình hình công tác sĩ quan dự bị của đơn vị, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh đã xây dựng kế hoạch chỉ tiêu đào tạo từ các đối tượng và kế hoạch dự kiến chỉ tiêu đào tạo cho năm sau sát với tình hình nhiệm vụ. Công tác tuyển chọn nguồn sĩ quan dự bị được tiến hành chặt chẽ ở các huyện, thành phố, tập trung đào tạo sĩ quan dự bị từ cán bộ, công chức nhà nước và hạ sĩ quan dự bị hạng 1.

Đào tạo nguồn sĩ quan dự bị hằng năm do Tỉnh tổ chức và phối hợp với Trường Quân sự quân khu 1 nhằm đáp ứng đủ nhu cầu sắp xếp vào các đơn vị dự bị động viên theo biên chế thời chiến, đồng thời bổ sung nguồn cho số lượng sĩ quan dự bị giải ngạch hằng năm. Sau khi đào tạo cơ bản sĩ quan dự bị nắm được kiến thức, có kỹ năng quản lý chỉ huy ở các đơn vị dự bị động viên. Thời gian qua, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh đã tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đầu tư ngân sách địa phương đào tạo sĩ quan dự bị tại trường quân sự tỉnh được 1.450 đồng chí, đề nghị Bộ Tư lệnh quân khu đào tạo được 790 đồng chí, đạt 133,67% chỉ tiêu được giao2.

Công tác tạo nguồn chuyên nghiệp quân sự và chuyên môn kỹ thuật đạt chất lượng tốt.Để tạo nguồn chuyên nghiệp quân sự và chuyên môn kỹ thuật bổ sung, sắp xếp cho các đơn vị binh chủng kỹ thuật dự bị động viên cần tổ chức tốt công tác điều tra, thống kê các ngành nghề đúng, gần đúng với các chuyên nghiệp quân sự, chuyên môn kỹ thuật quân sự của các nhà trường, các cơ sở công nghiệp của trung ương, địa phương, các doanh nghiệp liên doanh trong nước và nước ngoài trên địa bàn tỉnh.

Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh đã tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh xây dựng kế hoạch và chỉ đạo các huyện, thành phố phối hợp với các đơn vị hữu quan để tạo nguồn chuyên nghiệp quân sự, chuyên môn kỹ thuật bổ sung cho các đơn vị dự bị động viên. Chú trọng việc tạo nguồn gắn với địa bàn, gắn với vùng động viên, đặc biệt là các chuyên môn kỹ thuật binh chủng, tạo điều kiện cho các đơn vị dự bị động viên binh chủng kỹ thuật, các đơn vị hậu cần, kỹ thuật các cấp.

Trong tạo nguồn chuyên nghiệp quân sự và chuyên môn kỹ thuật đã làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, khơi dậy tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội đối với các đối tượng là học sinh, sinh viên chuyên nghiệp. Tạo điều kiện cho các đối tượng có lao động ổn định gắn bó với địa phương, quê hương cũng chính là tạo sự ổn định cho công tác dự bị động viên.

3. Một số kinh nghiệm trong tạo nguồn dự bị động viên ở tỉnh Bắc Giang

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền địa phương và chỉ huy đơn vị đối với công tác xây dựng nguồn dự bị động viên.

Một trong những yếu tố quyết định trong tạo nguồn dự bị động viên là sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, đồng bộ từ Tỉnh ủy, UBND tỉnh đến cấp xã. Ban Chỉ huy quân sự các cấp cần chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương ban hành các văn bản, kế hoạch hằng năm và phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng ngành, từng địa phương. Việc cụ thể hóa các nội dung của Luật Quốc phòng, Luật Về lực lượng dự bị động viên năm 2019, các nghị định của Chính phủ phải được triển khai sâu rộng gắn với phân cấp, kiểm tra, giám sát thường xuyên. Qua đó, tạo nền tảng pháp lý vững chắc để thực hiện thống nhất, đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở.

Chất lượng, hiệu quả xây dựng nguồn dự bị động viên tại đơn vị cũng như ở địa phương phụ thuộc vào nhận thức trách nhiệm, năng lực lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương và chỉ huy đơn vịđối với việc xây dựng nguồn dự bị động viên. Kinh nghiệm này chỉ rõ, để xây dựng nguồn dự bị động viên có chất lượng cao, trước hết cần thống nhất nhận thức trong cấp ủy chính quyền địa phương và chỉ huy đơn vị về nhiệm vụ động viên quân đội là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị ở địa phương nói chung và của các đơn vị quân đội nói riêng.

Để công tác xây dựng nguồn dự bị động viên thực hiện có kết quả, cấp ủy địa phương cần có nghị quyết chuyên đề lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ công tác xây dựng nguồn dự bị động viên. Thường xuyên giáo dục, nâng cao nhận thức của các tổ chức, các lực lượng về những nội dung và quy định cụ thể đối với việc xây dựng nguồn dự bị động viên. Tổ chức tốt việc tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các văn bản, hướng dẫn của Bộ Quốc phòng, Quân khu về xây dựng lực lượng dự bị động viên. Trên cơ sở đó phát huy tinh thần trách nhiệm, tính tự giác, tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng nguồn dự bị động viên trong mọi điều kiện hoàn cảnh.

Trong xây dựng nguồn dự bị động viên, phải đặc biệt coi trọng chất lượng chính trị. Theo đó, các đơn vị quân đội phải chấp hành nghiêm mệnh lệnh tuyển quân, bảo đảm các tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, văn hóa của các công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự tại đơn vị. Giáo dục các quân nhân đang làm nghĩa vụ quân sự có phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của người quân nhân cách mạng, có trình độ kỹ thuật – chiến thuật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của đơn vị.

Khi quân nhân xuất ngũ về địa phương cần thực hiện tốt việc tuyên truyền, giáo dục, bảo đảm đúng, đủ, kịp thời tiêu chuẩn, chế độ cho bộ đội phục viên, xuất ngũ; tổ chức tốt việc bàn giao về chính trị, đạo đức, chuyên nghiệp quân sự của số quân nhân này cho cơ quan quân sự địa phương.

Cấp ủy, chính quyền địa phương là chủ thể trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nguồn dự bị động viên ở địa phương. Quán triệt cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác quân sự quốc phòng địa phương, bảo đảm hoạt động xây dựng nguồn dự bị động viên vận hành theo đúng cơ chế cấp ủy địa phương lãnh đạo, chính quyền quản lý, điều hành, cơ quan quân sự phối hợp với các cơ quan đoàn thể có liên quan và tham mưu và tổ chức thực hiện theo chức năng; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nguồn dự bị động viên. Chăm lo bồi dưỡng, nâng cao kiến thức toàn diện cho cán bộ chủ chốt ở địa phương, trước hết là kiến thức về công tác quân sự, quốc phòng địa phương, về nhiệm vụ động viên quân đội.

Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng trong xây dựng nguồn dự bị động viên.

Xây dựng lực lượng động viên nói chung và nguồn dự bị động viên nói riêng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức, gắn liền với công tác quân sự quốc phòng địa phương.

Thực tiễn xây dựng nguồn dự bị động viên có chất lượng hiệu quả, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng của địa phương. Thực hiện quân với dân một ý chí trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng nguồn dự bị động viên phải tuyên truyền cho các tổ chức chính trị xã hội, nhân dân địa phương và cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị hiểu sâu sắc quan điểm: “củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn quân, toàn dân”. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hoạt động cụ thể của các tổ chức, ban, ngành, đơn vị quân đội và Nhân dân về nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đề cao trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng trong xây dựng nguồn dự bị động viên. Mỗi ban ngành, đoàn thể xã hội tuy có chức năng riêng nhưng đều có trách nhiệm trong tham mưu và vận động hội viên, đoàn viên tham gia công tác quốc phòng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác xây dựng nguồn dự bị động viên. Phát huy vai trò trung tâm phối hợp hiệp đồng của cơ quan quân sự cấp xã; thực hiện tốt chức năng tham mưu, đề xuất công tác quốc phòng, quân sự, xây dựng nguồn dự bị động viên; bồi dưỡng cán bộ làm công tác động viên có năng lực, luôn chủ động, nhạy bén trong phát hiện đề xuất, phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể trong việc tham mưu và hướng dẫn tổ chức thực hiện việc xây dựng nguồn dự bị động viên ở cơ sở.

Chú trọng công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ động viên quân đội, phổ cập kiến thức quân sự, quốc phòng, kiến thức về xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên; tuyên truyền Luật Nghĩa vụ quân sự, các văn bản pháp luật về dự bị động viên, huấn luyện nâng cao trình độ, nghiệp vụ công tác xây dựng nguồn dự bị động viên của cán bộ quân sự các cấp. Phối hợp chặt chẽ với cơ quan công an làm tốt công tác bảo vệ an ninh, xây dựng địa bàn an toàn, quản lý các mối quan hệ xã hội của quân nhân dự bị động viên.

Ba là, phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị với chính quyền địa phương thực hiên tốt công tác xây dựng nguồn dự bị động viên.

Xây dựng, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, tổ chức với địa phương là yếu tố quyết định đến việc tạo nguồn dự bị động viên, bảo đảm số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý. Theo đó, cần phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội ở địa phương trong việc giáo dục truyền thống, bồi dưỡng ý thức bảo vệ Tổ quốc cho đoàn viên, hội viên; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, giải quyết khó khăn của quân nhân dự bị. Từng thời gian, sau từng khâu, từng bước, từng nhiệm vụ xây dựng nguồn dự bị động viên phải chủ động cùng cấp ủy chính quyền địa phương tổ chức rút kinh nghiệm về thực hiện kế hoạch tạo nguồn, quản lý nguồn dự bị động viên, về sự phối hợp giữa đơn vị và địa phương trong thực hiện các khâu, các bước của xây dựng nguồn dự bị động viên và giải quyết những vấn đề phát sinh.

Bốn là, thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với quân nhân và gia đình quân nhân dự bị.

Thực tiễn xây dựng nguồn dự bị động viên cho thấy, xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các chính sách, chế độ đối với quân nhân dự bị sẽ tạo động lực thúc đẩy cho các công dân tích cực, tự giác tham gia xây dựng nguồn dự bị động viên. Do đó, cần coi trọng và làm tốt công tác chính sách; đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, chính quyền, cơ quan làm công tác chính sách và phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, ban ngành, đoàn thể và địa phương trong việc chăm lo bảo đảm quyền lợi, chế độ, chính sách cho quân nhân và gia đình quân nhân dự bị.

Cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương và đơn vị cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về việc thực hiện chế độ, chính sách; có biện pháp thiết thực, cụ thể phát huy những mặt tốt, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, góp phần bổ sung, hoàn thiện chính sách, chế độ đãi ngộ của Đảng và Nhà nước đối với quân nhân dự bị. Vì vậy cần làm tốt công tác giáo dục, phổ biến tiêu chuẩn, chế độ, quyền lợi và nghĩa vụ của quân nhân dự bị; phát huy trách nhiệm tổ chức thực hiện của cơ quan và cán bộ làm công tác chính sách trong việc chấp hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước và của Bộ Quốc phòng đối với quân nhân dự bị, bảo đảm đầy đủ, công khai, công bằng, thuận tiện, đúng đối tượng quân nhân dự bị.

Đối với các địa phương còn có khó khăn về kinh tế, cần có chế độ ưu tiên cho các vùng này đủ ngân sách bảo đảm cho các hoạt động xây dựng lực lượng dự bị động viên nói chung và xây hượng nguồn dự bị động viên nói riêng. Kết hợp tốt việc chi theo Luật Ngân sách nhà nước với động viên nhân dân tham gia quỹ quốc phòng để xây dựng lực lượng vũ trang và xây dựng nguồn dự bị động viên ở cơ sở.

4. Kết luận

Xây dựng nguồn lực dự bị động viên chính là xây dựng con người, nhân tố quyết định chất lượng của lực lượng dự bị động viên. Xây dựng nguồn dự bị động viên là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, là nhiệm vụ của cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội. Vì vậy mọi tổ chức, mọi lực lượng cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm, phối hợp phát huy sức mạnh của địa phương, đơn vị quân đội, các tổ chức chính trị, xã hội trong xây dựng nguồn dự bị động viên. Qua thực tiễn tạo nguồn dự bị động viên ở tỉnh Bắc Giang đã rút ra được những kinh nghiệm quý trong tạo nguồn dự bị động viên. Những kết quả đạt được không chỉ góp phần củng cố thế trận quốc phòng toàn dân mà còn tạo cơ sở để địa phương sẵn sàng ứng phó với các tình huống quốc phòng – an ninh trong tình hình mới.

Chú thích:
1. Tỉnh ủy Bắc Giang (2010). Kế hoạch số 53/KH-TU ngày 11/3/2010 về thực hiện Kết luận số 41-KL/TW ngày 31/3/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TW ngày 05/10/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên trong tình hình mới.
2. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Giang (2019). Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị định số 26/2002/NĐ-CP ngày 12/3/2002 của Chính phủ về sĩ quan dự bị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX). Chỉ thị số 16-CT/TW ngày 05/10/2002 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên.
2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2009). Kết luận số 41-KL/TW ngày 31/3/2009 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 16-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên trong tình hình mới.
3. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Giang (2014). Đề án số 02/ĐA-BCH, ngày 04/9/2014 về nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan dự bị binh chủng năm 2015 – 2016, định hướng đến năm 2020.
4. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Giang (2019). Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị định số 26/2002/NĐ-CP ngày 12/3/2002 của Chính phủ về sĩ quan dự bị Quân đội nhân dân Việt Nam.
5. Quốc hội (1996). Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên năm 1996.
6. Quốc hội (2019). Luật về lực lượng dự bị động viên năm 2019.
7. Tỉnh ủy Bắc Giang (2010). Kế hoạch số 53/KH-TU ngày 11/3/2010 về thực hiện Kết luận số 41-KL/TW ngày 31/3/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TW ngày 05/10/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên trong tình hình mới.
8. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2016). Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Pháp lệnh về dự bị động viên (1996 – 2016).
9. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2016). Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật Quốc phòng.
10. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2018). Báo cáo Tổng kết 10 năm (2008 – 2018) thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới.