TS. Hoàng Thanh Sơn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển lực lượng sản xuất là nhân tố cốt lõi, là yêu cầu cấp bách trong phát triển nhanh và bền vững, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. Dựa trên việc khảo sát ba nhân tố cốt lõi: người lao động, cơ sở vật chất – hạ tầng và khoa học – công nghệ, nghiên cứu chỉ ra những thành tựu, hạn chế trên từng lĩnh vực, từ đó, đề xuất các nhóm giải pháp đồng bộ để TP. Hồ Chí Minh trở thành đơn vị dẫn đầu cả nước trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc hiện nay.
Từ khóa: Lực lượng sản xuất, chuyển đổi số, phát triển kinh tế – xã hội, TP. Hồ Chí Minh.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, việc phát triển lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của mỗi quốc gia và địa phương. Đối với TP. Hồ Chí Minh, đầu tàu kinh tế của cả nước, việc phát huy và nâng cao trình độ lực lượng sản xuất càng trở nên cấp thiết. Với lợi thế về dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, cùng với hệ thống hạ tầng công nghiệp – dịch vụ quy mô lớn sau khi sáp nhập. Tuy nhiên, TP. Hồ Chí Minh cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ, cần phải có những giải pháp đồng bộ, quyết liệt mới đáp ứng được yêu cầu phát triển bứt phá trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
2. Thực trạng về lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng và khoa học – công nghệ ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay
Thứ nhất, về phát triển lực lượng sản xuất.
TP. Hồ Chí Minh có dân số hơn 14 triệu người, trong đó lực lượng lao động chiếm khoảng 7 – 8 triệu người1, đây không chỉ là đơn vị có dân số đông nhất mà còn có tỉ lệ dân số trẻ cao nhất tính theo chỉ số trung bình của cả nước. Đây là lợi thế cực kỳ to lớn của thành phố trong khai thác nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội cũng như những tiền đề cần thiết để củng cố, nâng cao mọi mặt trình độ cho chính nguồn lực phát triển lực lượng sản xuất của Thành phố.
Về cơ cấu ngành nghề khá đa dạng, do đặc thù về kinh tế công nghiệp trước khi sáp nhập, TP. Hồ Chí Minh (cũ) có nhiều lao động trình độ cao trong tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin, dịch vụ thương mại, logistics; tỉnh Bình Dương (cũ) có lực lượng lao động kỹ thuật và phổ thông trong các khu công nghiệp (dệt may, gỗ, điện tử, cơ khí chế tạo); Bà Rịa – Vũng Tàu lực lượng lao động cao tập trung trong lĩnh vực khai thác dầu khí, cảng biển, logistics, du lịch biển và dịch vụ quốc tế.
Về chất lượng nguồn nhân lực, TP. Hồ Chí Minh tập trung trên 100 trường đại học, học viện, trường cao đẳng, mỗi năm cung cấp hơn 150.000 cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ. Trong đó, có nhiều ngành mũi nhọn, như: công nghệ thông tin, tài chính, quản trị – kinh doanh, kỹ thuật, y tế; trình độ học vấn trung bình cao hơn mức cả nước; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 80%2. Với quy mô lớn, số lượng đông đảo và cơ cấu lao động đa dạng về ngành nghề, vừa phản ánh sự đa dạng về công nghiệp, vừa phản ánh sự đa dạng về trình độ lao động, đã phản ánh những nấc thang phát triển của lực lượng sản xuất của Thành phố; đồng thời, khu vực Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu (cũ) cũng là nơi có thế mạnh về đào tạo nghề, nhân lực kỹ thuật cho người lao động cả trong nước và xuất khẩu.
Nhờ đẩy mạnh chuyển đổi số trong các cơ quan hành chính, trong các doanh nghiệp, các lớp bình dân học vụ số được phổ cập nên kỹ năng số của người lao động đang được nâng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, theo yêu cầu phát triển kinh tế, hiện nay TP. Hồ Chí Minh vẫn còn thiếu hụt đội ngũ kỹ sư, chuyên gia lao động trong các ngành công nghệ cao, AI, bán dẫn, năng lượng xanh… đây chính là yêu cầu đối với những lĩnh vực thực hiện bước phát triển đột phá, lĩnh vực phát triển bền vững ở Thành phố nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
Xuất phát từ một thành phố có nền kinh tế phát triển năng động nhất cả nước với người lao động khá linh hoạt, có khả năng thích ứng cao, có nhiều kinh nghiệm trong môi trường sản xuất công nghiệp và dịch vụ quốc tế, tuy nhiên, hiện nay đang rất cần nâng cao năng lực nghiên cứu – sáng tạo khoa học mới và vận dụng vào thực tiễn biến đổi nhanh chóng, thực trạng này cũng đòi hỏi Thành phố cần có chính sách dẫn đường và mở cửa mạnh mẽ để xây dựng đội ngũ khoa học tiên phong, đóng vai trò là lượng nòng cốt cho phát triển sản xuất.
Thành phố có diện tích rộng, địa hình đa dạng, dân số dồi dào, có nhiều khu công nghiệp lớn nhất cả nước về số lượng, quy mô và trình độ, nên quy mô lao động lớn, cơ cấu đa dạng đã và đang đáp ứng nhiều loại hình sản xuất, đây là một trong những động lực to lớn để phát triển lực lượng sản xuất đa dạng về trình độ từ thấp đến cao gắn với vùng, miền.
Thành phố có lực lượng trí thức đông đảo, đội ngũ kỹ sư, chuyên gia tập trung nhiều nhất cả nước, đây là thế mạnh để thành phố luôn dẫn đầu cả nước về năng suất lao động, về phát triển kinh tế, hơn nữa cũng là cơ sở để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao. Có hệ thống đào tạo, nghiên cứu lớn, các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề có liên kết khá chặt chẽ và thường xuyên với doanh nghiệp, FDI. Có lực lượng lao động trẻ, năng động, thích nghi nhanh với thay đổi công nghệ, với nền sản xuất xã hội.
Sau khi sáp nhập từ 3 tỉnh, thành phố, hiện tại, chất lượng nguồn nhân lực của TP. Hồ Chí Minh chưa đồng đều, đó là: TP. Hồ Chí Minh có đội ngũ chuyên gia, trí thức cao, nhưng khu vực Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu (cũ) có đội ngũ chuyên gia, trí thức không nhiều, số lượng lao động phổ thông chiếm tỷ lệ khá cao. Hiện nay, thành phố còn thiếu nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực mũi nhọn (bán dẫn, AI, fintech, logistics số).
Mặt khác, quá trình đô thị hóa đã và đang diễn ra nhanh chóng gây áp lực, như nhập cư đông, thiếu nhà ở công nhân; dịch vụ xã hội chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn, ảnh hưởng đến chất lượng sống và năng suất lao động.
Thứ hai, về cơ sở vật chất – hạ tầng sản xuất.
Cơ sở vật chất – hạ tầng sản xuất chính là nhân tố cấu thành của lực lượng sản xuất, nhân tố này được hiểu là những tư liệu sản xuất của xã hội, cùng với nhân tố con người, yếu tố khoa học – công nghệ hợp thành lực lượng sản xuất, bảo đảm tính đồng bộ trong kết cấu để nền sản xuất xã hội phát triển.
TP. Hồ Chí Minh (cũ): có hơn 17 khu công nghiệp, khu chế xuất và Khu Công nghệ cao, đây là trung tâm sản xuất điện tử, chip, cơ khí chính xác, dược phẩm3. Khu vực tỉnh Bình Dương trước đây nổi bật với hệ thống hơn 30 khu công nghiệp (VSIP, Sóng Thần, Mỹ Phước…), được quy hoạch hiện đại, đồng bộ nhất cả nước, đóng vai trò công xưởng công nghiệp4. Khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu có các khu công nghiệp phục vụ dầu khí, cảng biển, hóa chất, luyện kim; đồng thời, phát triển các khu công nghiệp – cảng biển liên hợp (Phú Mỹ, Cái Mép)5.
Sau sáp nhập, tổng cộng vùng kinh tế TP. Hồ Chí Minh mở rộng có 66 khu công nghiệp – chế xuất, chiếm tỷ lệ 10% với số lượng lớn nhất Việt Nam6. Không chỉ lớn về số lượng mà cả quy mô, mà còn tập trung nhiều ngành xuất các sản phẩm công nghiệp trình độ cao, tạo nên cụm hạ tầng sản xuất – logistics – công nghệ cao tương đối hoàn chỉnh.
Về cảng biển có Cát Lái, Hiệp Phước, Tân Cảng, quy mô lớn nhưng thường quá tải; cảng Cái Mép – Thị Vải, cảng nước sâu hiện đại nhất Việt Nam, đây là cụm cảng biển liên hoàn từ Cát Lái đến Cái Mép – Thị Vải giúp nâng vị thế logistics quốc tế nằm trong trục vận tải Đông – Tây.
Về logistics, sau khi sáp nhập, hệ thống logistics của thành phố có hệ thống cảng cạn, trung tâm logistics tại Sóng Thần, Dĩ An, với mạng lưới kho bãi, vận tải đường bộ, đường sông, đường biển đang phát triển logistics hàng hải, kết nối quốc tế. Toàn vùng trở thành trung tâm logistics cửa ngõ của Việt Nam.
Về đường bộ, cao tốc TP. Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây; TP. Hồ Chí Minh – Mộc Bài, Bến Lức – Long Thành (chuẩn bị hoàn thành); quốc lộ 51; vành đai 3; vành đai 4 tạo điều kiện mở rộng khả năng lưu thông hàng hóa. Về đường sắt, đang quy hoạch tuyến Biên Hòa – Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh – Cần Thơ. Về hàng không, sân bay Tân Sơn Nhất đang được mở rộng; sân bay Long Thành khi hoàn thành dự kiến sẽ trở thành trung tâm trung chuyển quốc tế, tạo động lực mạnh mẽ cho sản xuất và logistics.
Hệ thống năng lượng và công nghệ hạ tầng cũng được đầu tư mạnh mẽ, như điện – năng lượng, điện khí và khai thác dầu khí, các dự án điện gió ngoài khơi… năng lượng tái tạo bắt đầu được triển khai, góp phần chuyển đổi năng lượng xanh. Đồng thời, Thành phố đi đầu trong triển khai chính quyền số, đô thị thông minh, trung tâm dữ liệu, các khu công nghệ cao, công viên phần mềm tạo nền tảng hạ tầng số cho sản xuất.
Với sự phát triển mạnh về công nghiệp, về tốc độ đô thị hoá trong những năm vừa qua đã gây quá tải hạ tầng giao thông đô thị, kẹt xe tại cửa ngõ TP. Hồ Chí Minh, tình trạng ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp, tác động xấu đến sức khỏe người dân, đến hệ sinh thái vùng, ảnh hưởng xấu cho phát triển lực lượng sản xuất, tính bền vững của khu vực này, việc thiếu quỹ đất sạch gây khó mở rộng thêm khu công nghiệp ở trung tâm, phụ thuộc quy hoạch vùng ven, liên kết chưa đồng bộ gây khó khăn cho việc khai thác tối đa lợi thế kết nối các hải cảng.
Thứ ba, nhân tố khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo.
TP. Hồ Chí Minh có nhiều trường đại học, học viện, viện nghiên cứu, với nhiều trung tâm nghiên cứu lớn. Bình Dương (cũ) có thành phố thông minh, khu nghiên cứu ứng dụng tại Khu công nghiệp VSIP, Becamex IDC; mạng lưới hợp tác với Singapore, Hà Lan về đô thị thông minh. Bà Rịa – Vũng Tàu (cũ) có viện nghiên cứu dầu khí, cảng biển và logistics, trung tâm nghiên cứu năng lượng tái tạo và kinh tế biển.
Các khu công nghệ cao và đổi mới sáng tạo, như: Khu Công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh (SHTP) là nơi tập trung nhiều tập đoàn toàn cầu gồm Intel, Samsung, Nidec, Schneider…; Khu phần mềm Quang Trung (QTSC) là trung tâm công nghệ thông tin, phần mềm lớn nhất cả nước. Thủ Đức là hạt nhân của “thành phố đổi mới sáng tạo” phía Đông. Bình Dương (cũ) , vùng thử nghiệm smart city, trung tâm logistics – sản xuất thông minh. Khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu cũ với cảng Cái Mép – Thị Vải (trung tâm logistics quốc tế), hướng tới phát triển công nghệ hàng hải, cảng biển thông minh.
Nghiên cứu và phát triển (R&D): đầu tư R&D được mở rộng, theo thống kê quy mô đầu tư chiếm khoảng 0,8-1% GRDP (mục tiêu chi cho đầu tư R&D là 2%) cao nhất cả nước7. Các trung tâm nghiên cứu về chip bán dẫn, AI, năng lượng sạch bắt đầu hình thành trong những năm gần đây. Về đổi mới sáng tạo, TP. Hồ Chí Minh tiếp tục dẫn đầu về số lượng startup (hơn 50% cả nước), đặc biệt trong fintech, edtech, AI. Chính quyền số, đô thị thông minh, dữ liệu lớn (Big Data) đã và đang được triển khai nhanh chóng và đồng bộ ở TP. Hồ Chí Minh. Dịch vụ công trực tuyến, thanh toán số, thương mại điện tử phát triển mạnh.
Tuy nhiên, ở nội dung này, TP. Hồ Chí Minh cũng đang có những hạn chế nhất định, như: mức đầu tư R&D tuy cao nhất so với các tỉnh, thành và mức trung bình cả nước, song thực tế còn thấp so với tiềm năng và yêu cầu mới, đặc biệt khi so sánh trong tương quan với các nước ngoài (mới ~1% GRDP, trong khi Hàn Quốc >4%)8. Nhiều ngành công nghệ cao còn phụ thuộc công nghệ nhập khẩu, công nghệ lõi (chip, AI, vật liệu mới) chủ yếu đến từ FDI. Hoạt động liên kết ba nhà (nhà nước – nhà trường – doanh nghiệp) còn lỏng lẻo, kết quả nghiên cứu chưa thương mại hóa mạnh.
3. Giải pháp phát triển lực lượng sản xuất TP. Hồ Chí Minh trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Một là, đẩy mạnh phát triển triển nguồn nhân lực.
Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”9, TP. Hồ Chí Minh cần tiếp tục cải cách hệ thống đào tạo từ phổ thông đến đại học, dạy nghề theo hướng: thiết kế chương trình theo mô-đun “nghề – kỹ năng – chứng chỉ” phối hợp doanh nghiệp (apprenticeship, dual training), thành lập mạng lưới trường nghề “chuẩn ASEAN”, thực hiện “Micro-credential” (chứng chỉ ngắn hạn) cho kỹ năng 4.0: Iot, AI cơ bản, Robotics, Logistics số. Chương trình tái đào tạo miễn phí cho công nhân ngành dễ tự động hóa, Voucher đào tạo do thành phố tài trợ kết hợp doanh nghiệp FDI (co-funding).
Thu hút và giữ chân nhân tài chất lượng cao, xây dựng và thực hiện các gói ưu đãi cho chuyên gia: thuế thu nhập ưu đãi, nhà ở công nhân/chuyên gia giá rẻ, visa/tạm trú cho chuyên gia nước ngoài. Đồng thời, hỗ trợ nhà ở, trường học cho con em họ bảo đảm sớm ổn định cuộc sống, để họ gắn bó lâu dài với công việc tại thành phố.
Hai là, có chính sách hoàn thiện cơ sở vật chất – hạ tầng sản xuất và logistics.
Để thực hiện mục tiêu giảm chi phí logistics 30% so với hiện tại, đồng thời, hoàn thiện chuỗi cảng – kho – sân bay – đường sắt – đường bộ liên vùng và bảo đảm năng lượng an toàn và xanh thì thành phố cần thực hiện đồng bộ:
(1) Hoàn thiện các công trình giao thông và logistics đa phương thức, như ưu tiên hoàn thiện Metro, vành đai 3/4, kết nối đường bộ tới cảng Cái Mép và sân bay Long Thành. Phát triển hành lang vận tải hàng hóa đường sắt giữa TP. Hồ Chí Minh – Bình Dương – Vũng Tàu, mở rộng ICDs/logistic parks gần cảng; phát triển “last-mile” logistics bằng đường sông.
(2) Hiện đại hóa cảng và kho bãi, gồm: nâng cấp cảng Cái Mép – Thị Vải thành Hub transshipment quy mô lớn; số hoá quản lý cảng; áp dụng cảng xanh. Kêu gọi đầu tư kho lạnh, kho DC chuẩn quốc tế (data centers proximity).
(3) Đầu tư phát triển các nguồn năng lượng và môi trường cho sản xuất bền vững, như: phát triển nguồn điện gió ngoài khơi, điện mặt trời, khuyến khích captive power; có chính sách giá ưu đãi cho điện xanh, hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải công nghiệp tập trung, quản lý chất thải theo mô hình kinh tế tuần hoàn.
(4) Nâng cấp hạ tầng số và an ninh dữ liệu: phổ cập 5G/FTTH các khu công nghiệp và khu đô thị; khuyến khích đặt Data Centers tại Long Thành/Bình Dương, xây dựng nền tảng dữ liệu logistics (one-stop data platform) cho doanh nghiệp.
Ba là, thúc đẩy khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Để thực hiện mục tiêu của thành phố tăng R&D lên 1,5 – 2% GRDP; phát triển 3 – 5 ngành công nghệ lõi (bán dẫn, AI/ML, năng lượng sạch, logistics số, medtech)10. Tăng đầu tư cho R&D và cơ chế khuyến khích cho doanh nghiệp, xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm công – tư (city VC co funding) ưu tiên Deep tech, thành lập 3 CoE: AI và dữ liệu lớn; thiết kế và sản xuất bán dẫn; năng lượng biển/bông/tái tạo (có phòng thí nghiệm, testbed), khuyến khích doanh nghiệp đặt trung tâm R&D.
Tăng cường thương mại hóa kết quả nghiên cứu, thiết lập Tech-transfer office trong các trường đại học lớn và khu công nghiệp, đơn giản hóa thủ tục sở hữu trí tuệ (IP), thiết lập, khuyến khích các chương trình “đặt hàng nghiên cứu” giữa doanh nghiệp với các học viện/trường, bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hòa giữa sản xuất và nghiên cứu.
Bốn là, tối ưu hóa FDI và phát triển doanh nghiệp trong nước.
Để thực hiện mục tiêu thu hút FDI chất lượng, nâng tỷ lệ nội địa hóa chuỗi cung ứng, phát triển SME tham gia chuỗi toàn cầu… cần có chiến lược thu hút FDI theo ngành, gồm: xác định danh mục “FDI mục tiêu” – bán dẫn, data centers, dược sinh học, EV components, logistics tech. Có cơ chế ưu đãi điều chỉnh theo mức độ chuyển giao công nghệ (incentives phức hợp: thuế, đất, hỗ trợ R&D).
Nâng cấp doanh nghiệp nội địa, trong đó cần hỗ trợ chứng nhận chất lượng, tiêu chuẩn quốc tế (ISO, IATF), hỗ trợ đổi mới quy trình (lean, 6-sigma), bảo đảm việc “gắn kết nhà cung cấp” giữa FDI và doanh nghiệp Việt (mentoring + co-investment).
Năm là, đổi mới thể chế và tăng cường liên kết vùng.
Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính theo hệ thống “một cửa” và hành chính số, gồm: triển khai one-stop online cho mọi giấy phép đầu tư, đất đai, xây dựng; đồng thời, thực hiện kết nối dữ liệu dân cư – doanh nghiệp giữa 168 đơn vị hành chính mới để giảm chi phí hành chính.
Cần có cơ chế chia sẻ nguồn thu giữa các địa phương trong siêu đô thị để bảo đảm đầu tư hạ tầng vùng, vừa mang tính đồng bộ, vừa bảo đảm tính trọng điểm và đặc thù vùng, miền; bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hòa; đồng thời, phát huy thế mạnh từng vùng, phát triển nhanh và bền vững.
Thực hiện chính sách an sinh cho lao động di cư, xây dựng nhà ở giá rẻ cho công nhân; thực hiện bảo hiểm y tế bắt buộc; có chính sách hỗ trợ giáo dục cho con em công nhân trong các khu công nghiệp; nơi ở cho gia đình kỹ sư, công nhân, bảo đảm để họ yên tâm cống hiến.
4. Kết luận
Qua phân tích thực trạng lực lượng sản xuất tại TP. Hồ Chí Minh trong bối cảnh chuyển đổi số, có thể khẳng định, thành phố đang nắm giữ nhiều tiềm năng và lợi thế to lớn nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Về thành tựu, TP. Hồ Chí Minh sở hữu nguồn nhân lực dồi dào, đa dạng về cơ cấu, hệ sinh thái hạ tầng sản xuất – logistics – cảng biển – sân bay được kết nối ngày càng hoàn thiện; là trung tâm đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hàng đầu cả nước. Đây là những nền tảng vững chắc cho sự phát triển. Tuy nhiên, những hạn chế còn tồn tại là rào cản không nhỏ, chất lượng nguồn nhân lực chưa đồng đều, thiếu hụt chuyên gia trong các ngành công nghệ lõi như bán dẫn, AI; hạ tầng giao thông đô thị quá tải làm tăng chi phí logistics; mức đầu tư cho R&D còn thấp so với yêu cầu, phụ thuộc vào công nghệ nhập khẩu.
Để khắc phục những hạn chế này và phát huy tối đa tiềm năng, việc triển khai đồng bộ các giải pháp là yêu cầu cấp thiết. Việc thực thi hiệu quả các giải pháp nêu trên sẽ tạo ra động lực đột phá, giúp TP. Hồ Chí Minh giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế và phát triển thịnh vượng trong kỷ nguyên số.
Chú thích:
1. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
2. Niên giám thống kê TP. Hồ Chí Minh năm 2024. https://thongkehochiminh.gso.gov.vn/Niengiam/2024/In-375-412.pdf, tác giả tổng hợp kết quả từ trang 375- 412.
3. Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh muốn thu hút trung tâm R&D. https://vnexpress.net/khu-cong-nghe-cao-tp-hcm-muon-thu-hut-trung-tam-r-d-4843096.html, ngày 25/01/2025
4. Bình Dương phát triển công nghiệp và dịch vụ hướng đến tăng trưởng hai con số. https://vneconomy.vn/binh-duong-thuc-day-cong-nghiep-va-dich-vu-huong-den-tang-truong-hai-con-so.htm?.
5. Kết nối cảng biển phát triển công nghiệp. https://saigonport.vn/ket-noi-cang-bien-phat-trien-cong-nghiep-bai-1-nhieu-du-dia/, ngày 23/12/2022.
6. Khu công nghiệp TP. Hồ Chí Minh sẵn sàng thu hút đầu tư. https://htv.com.vn/khu-cong-nghiep-tai-tphcm-san-sang-thu-hut-nha-dau-tu-222250720114724493.htm, ngày 20/7/2025.
7, 10. TP. HCM đặt mục tiêu chi nghiên cứu phát triển 5.000 tỷ đồng mỗi năm. https://vnexpress.net/tp-hcm-dat-muc-tieu-chi-nghien-cuu-phat-trien-5-000-ty-dong-moi-nam-4840304.html?, ngày 17/01/2025.
8. OECD (2025). OECD Economic Surveys: Viet Nam 2025, OECD Publishing, Paris. https://doi.org/10.1787/fb37254b-en, Page 117.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 136.