Đổi mới quản trị quốc gia trong kỷ nguyên số tại Việt Nam 

TS. Vũ Đức Hạnh
Trường Đại học Kiểm sát

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích một cách toàn diện về cơ sở lý luận, thực tiễn và các định hướng đổi mới quản trị quốc gia tại Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số mạnh mẽ. Trên cơ sở Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, bài viết làm rõ khái niệm, đặc trưng, lý thuyết tham chiếu về quản trị quốc gia; đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp chiến lược để hoàn thiện thể chế, xây dựng thiết chế hiện đại, phát triển nhân lực số, bảo đảm an ninh  chủ quyền số và mở rộng hợp tác quốc tế. Đặc biệt, những đóng góp luận cứ khoa học và thực tiễn trong bài viết nhằm đưa tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW vào đời sống quản trị quốc gia, qua đó thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Từ khóaQuản trị quốc gia; chuyển đổi số; Nghị quyết số 57-NQ/TW; phát triển bền vững; thể chế; dữ liệu.

1. Mở đầu

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quản trị quốc gia đã trở thành một chủ đề mang tính chiến lược ở hầu hết các quốc gia. Quản trị quốc gia không chỉ dừng lại ở việc điều hành bộ máy hành chính mà còn thể hiện khả năng tổ chức, phối hợp và kiểm soát quyền lực công; khả năng bảo đảm quyền con người, quyền công dân cũng như khả năng tạo lập môi trường ổn định, an ninh và phát triển bền vững. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo(AI), dữ liệu lớn (Big Data) và Blockchain, các quốc gia buộc phải đổi mới mô hình quản trị quốc gia để thích ứng và tận dụng cơ hội phát triển.

Ở Việt Nam, yêu cầu đổi mới quản trị quốc gia trở nên cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định rõ phát triển đất nước nhanh và bền vững phải dựa trên khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tiếp đến Nghị quyết số 57-NQ/TW tiếp tục cụ thể hóa, coi đây là đột phá chiến lược để hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường vào năm 2045. Chính vì vậy, nghiên cứu quản trị quốc gia trong mối liên hệ với Nghị quyết số 57-NQ/TW có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn.

Phương pháp tiếp cận của bài viết là kết hợp giữa phân tích lý luận, tổng hợp thực tiễn và so sánh quốc tế. Nghiên cứu sử dụng số liệu từ báo cáo Chính phủ 2023 – 2024, các chỉ số quản trị của Cơ quan phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) và Ngân hàng Thế giới (WB), đồng thời tham chiếu kinh nghiệm của một số quốc gia, như: Singapore, Hàn Quốc.

2. Cơ sở lý luận về quản trị quốc gia tại Việt Nam

Quản trị quốc gia xuất hiện mang tính tất yếu, ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước, ban đầu được coi là phương thức quản lý xã hội của Nhà nước (phương thức cai trị). Nhà nước, quản trị quốc gialuôn vận động, phát triển cùng với sự phát triển của xã hội, đáp ứng các yêu cầu của xã hội. Ngày nay, quản trị quốc gia không còn là phương thức quản lý của Nhà nước (phương thức tổ chức thực hiện quyền lực xã hội của Nhà nước) mà là một cơ chế vận hành quyền lực xã hội, trong đó có sự phân bổ lại quyền lực xã hội đang tập trung ở nhà nước sang các chủ thể khác là xã hội, người dân và thị trường cùng nhau thực hiện để đạt được mục tiêu phát triển toàn diện quốc gia.

“Quản trị” là một khái niệm có từ thời cổ đại, có nghĩa là dẫn lái, điều khiển1. Các nền văn minh cổ (Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Hoa) đã hình thành thiết chế quản trị tập trung để quản lý dân cư, thủy lợi, thu thuế. Khi xã hội phức tạp hơn, nhu cầu quản trị càng tăng thông qua việc tổ chức bộ máy, pháp luật, hệ thống quan lại.

Theo tiến trình phát triển của xã hội, quản trị xuất hiện trong nhiều thiết chế ở các cấp độ, quy mô khác nhau, như quản trị doanh nghiệp, quản trị địa phương… Khi đi vào hệ thống quốc gia, khái niệm quản trị được gọi là quản trị quốc gia. Giai đoạn 1980 – 1990, khái niệm quản trị quốc gia được hình thành từ các cuộc cải cách quản lý công, trên cơ sở kế thừa và phát triển của lý thuyết “quản lý công mới” (New Public Management)2. Ngày nay, với yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0, đòi hỏi quản trị quốc gia phải đổi mới theo hướng hiện đại, không chỉ là quản lý nhà nước truyền thống, mà còn là sự huy động tổng thể các nguồn lực (nhà nước, thị trường, xã hội) nhằm mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, công bằng. 

Khái niệm “governance” lần đầu tiên được đưa vào báo cáo của WB năm 19893, coi “good governance” là điều kiện tiên quyết để đạt phát triển bền vững và định nghĩa: “Quản trị quốc gia là cách thức quyền lực được thực thi trong quản lý các nguồn lực kinh tế và xã hội của một quốc gia vì mục tiêu phát triển”4. Tiếp theo, đến năm 1997, UNDP đưa ra định nghĩa: “Quản trị quốc gia gắn liền với việc thực thi quyền lực chính trị, hành chính, kinh tế để quản lý các vấn đề của quốc gia”5 và nhấn mạnh các nguyên tắc: sự tham gia, pháp quyền, minh bạch, trách nhiệm giải trình, công bằng, hiệu quả trong quảntrị quốc tế. Hội đồng Quản trị toàn cầu (Commission on Global Governance) định nghĩa: “Quản trị quốc gia là sự tập hợp của nhiều cách thức, trong đó các cá nhân, các thiết chế công và tư phối hợp giải quyết những vấn đề chung…”6.

Ở Việt Nam, khái niệm quản trị quốc gia mới được đề cập trong một số diễn đàn và chính thức được nêu trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng7. Tuy nhiên, về thực tiễn thì từ các triều đại phong kiến nước ta đã có mô hình quản trị quốc gia chặt chẽ (pháp luật, khoa cử, hành chính). Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, vừa bảo đảm quyền dân chủ, vừa định hướng phát triển. 

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, quản trị quốc gia là tất yếu để giải quyết thách thức xuyên biên giới như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao trên không gian mạng, tội phạm xuyên quốc gia khác (rửa tiền, buôn bán người…). 

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 và các văn kiện của Đảng đã chỉ ra những đặc thù của mô hình quản trị quốc gia Việt Nam: quản trị quốc gia được hình thành trên cơ sở Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; sự phối hợp giữa Nhà nước, thị trường, xã hội; giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. 

Quản trị quốc gia nhìn nhận quốc gia là một tổng thể, một thực thể với đầy đủ nguồn lực, lợi thế so sánh và cả những hạn chế cần khắc phục. Theo đó, quản trị địa phương đòi hỏi phải đặt trong lợi ích chung của quốc gia (đặt quản trị địa phương trong tổng thể quản trị quốc gia và không thể tách biệt), đồng thời, quản trị quốc gia cũng phân định rõ vai trò, trách nhiệm của khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, trách nhiệm của Nhà nước, thị trường và xã hội trước các vấn đề phát triển. 

Như vậy, quản trị quốc gia ở Việt Nam phản ánh cách thức tổ chức quyền lực xã hội nhằm quản trị sự phát triển xã hội, bảo đảm lợi ích công và vì mục tiêu phát triển quốc gia. Theo đó, có thể hiểu: Quản trị quốc gia ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là quá trình phân công, điều phối và kiểm soát việc thực thi quyền lực xã hội của Nhà nước, kết hợp với sự tham gia của các chủ thể ngoài nhà nước dựa trên những nguyên tắc, chuẩn mực phổ quát của quản trị quốc gia hiện đại để cùng tham gia xây dựng, quyết định và thực hiện các mục tiêu phát triển quốc gia về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Quản trị quốc gia ở Việt Nam không phải là một mô hình quản lý nhà nước (QLNN) mà là một cơ chế vận hành, có thể khái quát thành tám điểm đặc trưng sau: 

Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng đối với quản trị quốc gia là một tất yếu khách quan, là điều kiện để quản trị quốc gia đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là một chủ thể đặc biệt và quan trọng trong nền quản trị quốc gia, giữ vai trò là hạt nhân lãnh đạo của nền quản trị quốc gia (Điều 4 Hiến pháp năm 2013). 

Thứ hai, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một chủ thể đặc biệt, quan trọng nhất trong quản trị quốc gia, với những đặc điểm sau: 

(1) Do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo (Điều 4 Hiến pháp năm 2013);

(2) Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2 Hiến pháp năm 2013); 

(3) Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến phápvà pháp luật; quyền con người chỉ có thể bị hạn chế theo luật trong một số trường hợp cụ thể (Điều 14 Hiến pháp năm 2013); 

(4) Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật (Điều 8 Hiến pháp năm 2013); 

(5) Bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước…8. Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán9;

(6) Bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử (Điều 103 Hiến pháp năm 2013). 

(7) Tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế10.

Thứ ba, bảo đảm mọi hoạt động của bộ máy nhà nước và các chủ thể quản trị phải minh bạch, dễ tiếp cận, rõ ràng, có thể kiểm chứng. Đồng trời, quản trị quốc gia ở Việt Nam bảo đảm công khai để nhân dân giám sát quyền lực nhà nước, từ đó, phòng, chống tham nhũng, lạm quyền và nâng cao trách nhiệm giải trình. 

Thứ tư, thể chế quản trị quốc gia quy định nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức và cá nhân nắm giữ quyền lực công phải giải thích, báo cáo và chịu trách nhiệm về các quyết định, hành động và kết quả công việc trước Nhân dân, cơ quan giám sát và pháp luật. Đây là cơ chế bảo đảm quyền lực xã hội được sử dụng đúng mục đích, đúng pháp luật và vì lợi ích chung. 

Thứ năm, sự tham gia của người dân và xã hội và hướng đến sự đồng thuận. Sự tham gia của người dân và xã hội vào quản trị quốc gia ở Việt Nam là sự tham gia thực chất của mọi cá nhân, thị trường và xã hội vào các quá trình ra quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của họ, bao gồm cả việc xây dựng, thực thi và đánh giá chính sách quản trị công và quản trị quốc gia11. Cùng với bảo đảm sự tham gia, quản trị quốc gia ở Việt Nan luôn hướng tới sự đồng thuận xã hội trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật, phát triển xã hội12.

Thứ sáu, quản lý phát triển bền vững: việc hoạch định, thực thi, giám sát và điều chỉnh các chính sách nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, bảo đảm cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Nội dung của quản lý phát triển bền vững ở Việt Nam bao gồm: (1) Kinh tế bền vững (tăng trưởng đi đôi với ổn định vĩ mô, sử dụng hiệu quả tài nguyên, nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh); (2) Xã hội bền vững (giảm bất bình đẳng, theo đó, bảo đảm công bằng, nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, an sinh xã hội cho người dân); (3) Môi trường bền vững (sử dụng hợp lý tài nguyên, giảm phát thải, bảo vệ đa dạng sinh học và thích ứng biến đổi khí hậu); (4) Thể chế bền vững (tăng cường pháp quyền, quản trị hiệu quả, chống tham nhũng, chống lạm quyền, nâng cao năng lực dự báo và ứng phó rủi ro). 

Thứ bảy, bộ máy và năng lực quản trị công phải bảo đảm các chính sách công được triển khai đồng bộ, hiệu quả; tạo mối liên kết giữa Nhà nước và xã hội thông qua cung cấp dịch vụ công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bộ máy nhà nước có trách nhiệm hoạch định, tổ chức thực hiện và giám sát chính sách một cách hiệu lực (đúng mục tiêu, đúng luật) và hiệu quả (đạt kết quả tối ưu với chi phí, thời gian, nguồn lực hợp lý). Năng lực quản trị công của bộ máy Nhà nước được đánh giá qua năng lực thể chế, năng lực tổ chức thực thi, năng lực giám sát và đánh giá, năng lực thích ứng và đổi mới.

Thứ tám, quản trị quốc gia ở Việt Nam gắn với việc bảo vệ an ninh quốc gia và ổn định chính trị – xã hội, bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, ngăn ngừa, xử lý kịp thời các nguy cơ đe dọa từ bên ngoài và bên trong; tạo môi trường chính trị – xã hội ổn định giúp kinh tế phát triển, xã hội an toàn, pháp luật được thực thi nghiêm minh; củng cố niềm tin và sự đồng thuận xã hội, bảo đảm, người dân tin tưởng vào thể chế, từ đó tham gia tích cực vào các hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện tốt các cam kết quốc tế và hội nhập vì một quốc gia an toàn, ổn định là đối tác tin cậy trong hợp tác quốc tế, thương mại và đầu tư.

Quản trị quốc gia ở Việt Nam được tiếp cận trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và điều kiện lịch sử của Việt Nam qua các thời kỳ, đồng thời cũng tham chiếu các lý thuyết quản trị quốc gia hiện đại, như: lý thuyết quản trị đa tầng; lý thuyết quản trị đa trung tâm; lý thuyết quản trị dựa trên dữ liệu, trong đó hệ thống đa trung tâm bao gồm nhiều đơn vị ra quyết định độc lập nhưng có khả năng hợp tác hoặc cạnh tranh, hoạt động theo các quy tắc được chấp nhận chung13. Quản trị đa tầng phản ánh sự phân tán thẩm quyền ra quyết định trên nhiều cấp độ chính quyền, cả theo chiều dọc giữa các cấp khác nhau và theo chiều ngang giữa các tác nhân ở cùng cấp14… Các lý thuyết này gợi mở cho Việt Nam mô hình quản trị quốc gia linh hoạt, minh bạch và dựa trên bằng chứng15.

3. Thực trạng quản trị quốc gia tại Việt Nam 

Những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong quản trị quốc gia. Cụ thể: 

Một là, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng hoàn thiện với nhiều đạo luật quan trọng về đầu tư, doanh nghiệp, ngân sách nhà nước, đất đai, bảo vệ môi trường, dữ liệu cá nhân… được ban hành và thường xuyên sửa đổi để phù hợp với chuẩn mực quốc tế. 

Hai là, năng lực điều hành vĩ mô được củng cố, kinh tế tăng trưởng ổn định, lạm phát được kiểm soát. Trong giai đoạn 2011 – 2023, mặc dù bối cảnh quốc tế biến động mạnh (khủng hoảng nợ công châu Âu, chiến tranh thương mại Mỹ – Trung, đại dịch Covid-19), Việt Nam vẫn kiểm soát lạm phát ở mức thấp (bình quân 3 – 4%/năm), giữ ổn định tỷ giá, dự trữ ngoại hối tăng kỷ lục trên 100 tỷ USD vào năm 2022. 

Ba là, cải cách hành chính được đẩy mạnh, cắt giảm hàng nghìn thủ tục, áp dụng mô hình một cửa, dịch vụ công trực tuyến toàn trình. 

Bốn là, chuyển đổi số bước đầu đạt kết quả, với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, VNeID, Cổngdịch vụ công quốc gia. 

Năm là, trong hội nhập quốc tế, Việt Nam tham gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP; đã đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ 2020 – 2021; cam kết đạt Net Zero 2050 tại COP26 (2021), triển khai tích cực các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs); điều chỉnh nhiều đạo luật (lao động, sở hữu trí tuệ, môi trường, dữ liệu cá nhân…) để tương thích với các cam kết quốc tế. 

Sáu là, an sinh xã hội ở Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả như mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội, y tế, thất nghiệp; giảm nghèo bền vững; chính sách hỗ trợ trong khủng hoảng… Theo báo cáo của Bảo hiểm Xã hội, tính đến cuối 2023, cả nước có trên 17,5 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội (đạt 38% lực lượng lao động) và 92,5% dân số tham gia BHYT, tiệm cận mục tiêu bao phủ toàn dân; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm mạnh, từ 9,88% (2015) xuống còn khoảng 2,93% (2023); trong đại dịch Covid-19, Chính phủ triển khai gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng (2020) và gói phục hồi 350.000 tỷ đồng (2022). 

By là, an ninh chính trị và trật tự xã hội được bảo đảm; tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức thấp (dưới 3%) ngay cả trong bối cảnh khủng hoảng; nhiều chương trình phòng, chống tệ nạn xã hội, tội phạm công nghệ cao, ma túy, buôn người được triển khai, kết hợp với các biện pháp phòng ngừa và hỗ trợ cộng đồng. 

Bên cạnh thành tựu nêu trên, quản trị quốc gia ở nước ta cũng còn một số hạn chế, thách thức: (1) Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, thiếu luật tham vấn công chúng; (2) Minh bạch dữ liệu còn hạn chế; (3) Chuyển đổi số mới ở mức ban đầu, thiếu liên thông dữ liệu; (4) Khoảng cách số vùng miền lớn; năng lực số của đội ngũ cán bộ công chức còn hạn chế; (5) Nguy cơ mất chủ quyền số còn cao; (6) Tội phạm công nghệ cao có nguy cơ gia tăng. 

Nghị quyết số 57-NQ/TW cũng chỉ ra, một số hạn chế trong ứng dụng, phát triển khoa học – công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, nhất là sự nhận thức của nhiều cấp, nhiều ngành, cán bộ, công chức và Nhân dân về chuyển đổi số chưa đầy đủ và sâu sắc; nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa có bước đột phá, chưa làm chủ được công nghệ chiến lược, công nghệ cốt lõi; thể chế pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu; hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng số còn nhiều hạn chế; an ninh, an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu còn nhiều thách thức. 

4. Giải pháp đổi mới quản trị quốc gia trong kỷ nguyên số

Để thực hiện được tầm nhìn chiến lược của Đảng trong bối cảnh thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ do Cách mạng Công nghiệp 4.0, phù hợp với xu hướng toàn cầu, trong đó xác định vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia, đồng thời để khắc phục được những thách thức và hạn chế trong quản trị quốc gia ở Việt Nam hiện nay, cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:  

Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong đổi mới nền quản trị quốc gia ở Việt Nam: “đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tập trung quản lý phát triển; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân”16, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa chủ trương trên thành pháp luật, lãnh đạo các cơ quan nhà nước thực hiện và giám sát quá trình này, đồng thời “hóa than” sự lãnh đạo vào hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua vai trò của đảng viên, bảo đảm mục tiêu quản trị quốc gia hiệu quả. 

Thứ hai, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện đại, bảo đảm những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN, có hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến và phù hợp với thực tiễn đất nước, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân.

Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội; đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội; xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch; phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Trung ương và địa phương; xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, chuyển đổi số trong lập pháp, hành pháp, tư pháp; tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí công, vô tư.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật liên quan trực tiếp đến các trụ cột trong quản trị quốc gia hiện đại,như: tiếp tục hoàn thiện Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, trong đó nghiên cứu thành lập một ủy ban độc lập về quản lý và bảo vệ dữ liệu cá nhân; ban hành Luật Tham vấn công chúng, Luật Chống phân biệt đối xử; sửa đổi, bổ sung Luật Tiếp cận thông tin. Khung pháp lý này bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao minh bạch và trách nhiệm giải trình.

Thứ tư, phát triển thiết chế và hạ tầng quản trị quốc gia, xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia; triển khai Cổng dữ liệu quyền và các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc, trong đó thiết lập bảng điều khiển công khai cấp quốc gia, cấp tỉnh về chỉ số quyền gắn với các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc; tích hợp phản ánh của người dân (cơ chế crowdsourcing có xác thực); thành lập Trung tâm HRIA quốc gia chuyên thực hiện hoặc hỗ trợ đánh giá tác động quyền con người cho dự án, chính sách hoặc doanh nghiệp. Đây là nền tảng để hình thành hệ thống quản trị dựa trên bằng chứng.

Thứ năm, đổi mới phương thức quản trị, trong đó ứng dụng mạnh mẽ AI, Big Data, Blockchain; xây dựng hệ thống KPI số để giám sát hiệu quả cơ quan công quyền; tăng cường cơ chế phản hồi công dân trực tuyến. Kinh nghiệm từ Singapore (Smart Nation), Hàn Quốc (Digital New Deal) cho thấy hiệu quả rõ rệt.

Thứ sáu, phát triển nguồn nhân lực số: xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực số toàn diện; xây dựng khung năng lực số; đào tạo về kỹ năng số cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước, đồng thời lựa chọn, đào tạo, tập huấn đội ngũ tối thiểu 1.000 chuyên gia về chuyển đổi số cho ngành, lĩnh vực, địa phương và trở thành lực lượng nòng cốt để dẫn dắt, tổ chức và lan tỏa tiến trình chuyển đổi số quốc gia17; hợp tác với doanh nghiệp công nghệ và trường đại học để đào tạo nhân lực chất lượng cao. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Khẩn trương triển khai xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai thí điểm mô hình “Giáo dục đại học số” tại một số trường đại học phù hợp. Xây dựng, ban hành bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá chuyển đổi số cơ sở giáo dục đại học. 

Thứ by, bảo đảm an ninh (chủ quyền) số: Chủ quyền số ngày càng trở thành một bộ phận trọng yếu của an ninh – quốc phòng toàn diện, gắn với chuyển đổi số quốc gia và bảo đảm an ninh phi truyền thống. Chủ quyền số chính là quyền của quốc gia trong việc quản lý, kiểm soát và bảo vệ dữ liệu, hạ tầng số, không gian mạng và các hoạt động số hóa trong lãnh thổ của mình, đồng thời bảo đảm quyền tự chủ trong phát triển công nghệ và ứng dụng số. Vì vậy, Việt Nam cần ban hành Chiến lược bảo vệ chủ quyền số; hoàn thiện quy định về dữ liệu xuyên biên giới; nâng cao năng lực phòng chống tấn công mạng. An ninh số phải gắn chặt với quốc phòng toàn diện.

Thứ tám, hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc đối với việc chuyển đổi số trong quản trị quốc gia; tham gia sáng kiến toàn cầu về AI, dữ liệu mở; đóng góp vào các diễn đàn quản trị quốc tế. Điều này giúp Việt Nam nâng cao vị thế và khả năng thích ứng trong kỷ nguyên số.

5. Kết luận

Nghị quyết 57-NQ/TW đã xác định đất nước ta đang đứng trước yêu cầu cần có chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, mang tính chiến lược và cách mạng để tạo xung lực mới, đột phá phát triển khoa học -công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên giàu mạnh, hùng cường, thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao18. Chính vì thế, quản trị quốc gia trong kỷ nguyên số đòi hỏi sự đổi mới toàn diện cả về thể chế, thiết chế và phương thức quản trị. Nghị quyết 57-NQ/TW là bước ngoặt chiến lược, tạo nền tảng cho mô hình quản trị quốc gia hiện đại, minh bạch và dựa trên bằng chứng. Việt Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp từ hoàn thiện pháp luật, phát triển hạ tầng dữ liệu, đào tạo nhân lực số đến bảo đảm an ninh – chủ quyền số. Chỉ khi đó, quản trị quốc gia mới trở thành động lực thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững, bảo đảm quyền con người và quyền công dân trong điều kiện mới. 

Chú thích:

1. Khi văn kiện Đại hội nêu khái niệm “quản trị quốc gia”.https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/caybut/khi-van-kien-dai-hoi-neu-khai-niem-quan-tri-quoc-gia-721611.html

2. Christopher Hood (1991). A Public Management for All Seasons? (Public Administration, 69(1), 3–19).

3. World Bank (1989). Sub-Saharan Africa: From Crisis to Sustainable Growth. A Long-Term Perspective Study. Washington, DC: The World Bank: Link tham khảo: World Bank 1989 Report – Sub-Saharan Africa

4. WB, World Development Report (1992). Governance and Development (tạm dịch: Quản trị và phát triển), WashingtonDC, 1992, tr. 1; World Bank (1992). Governance and Development. Washington, DC: The World Bank. World Bank 1992 – Governance and Development (PDF)

5. UNDP (1997). Governance & Sustainable Human Development (tạm dịch: Quản trị và phát triển con người bền vững), A UNDP Policy Document, 1997, tr. 6.

6. Corina Adriana Dumitrescu. The Concept of Good Governance in Aristotle’s View. http://cogito.ucdc.ro/nr_3_en/1%20-%20THE%20CONCEPT%20OF%20GOOD%20GOVERNANCE%20IN%20eng.pdf.

7, 8, 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 203, 174, 203.

9, 10. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

11. UNDP. (1997). Governance for Sustainable Human Development.

12. Tăng cường đồng thuận xã hội trước tác động của phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay.https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/973602/tang-cuong-dong-thuan-xa-hoi–truoc-tac-dong-cua-phan-hoa-giau—ngheo-o-nuoc-ta-hien-nay.aspx

13. Ostrom, V., Tiebout, C. M., & Warren, R. (1961). The organization of government in metropolitan areas: A theoretical inquiry. American Political Science Review, 55(4), 831–842.

14. Hooghe, L., & Marks, G. (2003). Unraveling the Central State, but How? Types of Multi-level Governance. American Political Science Review, 97(2), 233–243.

15. Mayer-Schönberger, V., & Cukier, K. (2013). Big Data: A Revolution That Will Transform How We Live, Work, and Think. Houghton Mifflin Harcourt.

17. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

18. Ban Chấp hành Trung ương (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.