Bảo đảm sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số gắn với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc hiện nay

ThS. Nguyễn Văn Giang
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Bảo đảm sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc đã đạt nhiều kết quả tích cực góp phần phát triển kinh tế – xã hội, củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn thiếu bền vững, nhiều vấn đề mới nảy sinh liên quan đến quốc phòng, an ninh. Bài viết đề xuất giải pháp bảo đảm sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số gắn với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc.

Từ khóa: Bảo đảm; sinh kế bền vững; quốc phòng an ninh; dân tộc thiểu số; tỉnh biên giới phía Bắc.

1. Đặt vấn đề

Các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta (gồm 7 tỉnh là Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh)1 là địa bàn có vị trí chiến lược, tầm quan trọng đặc biệt về kinh tế – xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước, là “phên dậu”, “cửa ngõ” phía Bắc của quốc gia. Đồng thời, đây cũng là nơi có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số chiếm đa số dân cư với bản sắc văn hóa độc đáo riêng; có mối quan hệ lâu đời với các dân tộc thiểu số của Trung Quốc nhưng đời sống còn nhiều khó khăn, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng chống phá làm mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Bảo đảm sinh kế bền vững gắn với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh được xem là hướng đi có thể đưa các tỉnh này thoát khỏi “vùng trũng” trong phát triển và “lõi nghèo” của cả nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia; cùng cả nước tự tin bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh tiến lên theo mục tiêu xã hội xã hội chủ nghĩa.

2. Thực trạng bảo đảm sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh biên giới phía Bắc

Một là, nguồn lực sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được cải thiện, gắn kết với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh.

Các tỉnh biên giới phía Bắc đã đầu tư nâng cấp, mở rộng quy mô, ngành nghề đào tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động dạy nghề. Điển hình như tỉnh Lào Cai, năm 2024 đã tuyển sinh và đào tạo 12.715/12.000 người đạt 105,9% kế hoạch2. Việc làm tốt công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, “giữ chân” người lao động dân tộc thiểu số ở lại làm việc tại địa phương. Đây là điều kiện để bảo đảm nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế và lực lượng tác chiến tại chỗ cho khu vực phòng thủ, có thể huy động, động viên lực lượng khi cần thiết. Đồng thời, các tỉnh đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm tạo môi trường thuận lợi cho công tác trồng và bảo vệ rừng tạo sinh kế, tiêu biểu, như: tỉnh Lai Châu, tổng diện tích trồng rừng mới năm 2024 đạt 2.208 ha, đạt 114,29% kế hoạch3.

Từ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và các chương trình, dự án, hàng trăm công trình cấp nước sinh hoạt, phục vụ sản xuất được đầu tư xây dựng như hệ thống “hồ treo” chứa nước được xây dựng trên các xã vùng cao biên giới phía Bắc của tỉnh Tuyên Quang (tỉnh Hà Giang cũ), dự án cụm hồ chứa nước của tỉnh Cao Bằng. Hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu cũng được quan tâm đầu tư xây dựng như dự án đường đường bộ cao tốc Đồng Đăng (Lạng Sơn) – Trà Lĩnh (Cao Bằng); hệ thống điện lưới quốc gia, trường học, trạm y tế, trung tâm logistics tại Lào Cai, Lạng Sơn cũng được triển khai đồng bộ, từng bước cải thiện điều kiện sống của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời tạo hành lang kinh tế chiến lược gắn với củng cố quốc phòng, an ninh khu vực biên giới.

Hai, các đơn vị quân đội triển khai nhiều mô hình sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số gắn kết với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh mang lại hiệu quả cao.

Trên địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, các đoàn kinh tế – quốc phòng đã cử hàng nghìn lượt cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện xuống các thôn, bản xây dựng thành công, nhân rộng nhiều dự án, mô hình chăn nuôi, trồng trọt có hiệu quả kinh tế cao để Nhân dân tham quan, học tập và làm theo; thực hiện tốt dự án “Phát triển kinh tế, xã hội – mô hình bộ đội gắn với dân bản vùng dân tộc thiểu số và miền núi” và “Mô hình giảm nghèo gắn với quốc phòng – an ninh”.

Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu phát triển mô hình chăn nuôi trâu, bò; nuôi cá tầm, trồng cây dược liệu; Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng phát triển mô hình trồng mía đường; Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai phát triển mô hình trồng chuối, trồng dứa cao sản;… Từ đó, từng bước đưa sản xuất nông nghiệp của bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số từ sản xuất nhỏ lẻ, tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa với quy mô lớn hơn gắn với thị trường tiêu thụ, mở ra hướng làm giàu cho đồng bào dân tộc thiểu số; góp phần giữ vững ổn định chính trị, làm thất bại âm mưu phá hoại, chia rẽ của của các thế lực thù địch, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc. Lãnh thổ và chủ quyền quốc gia ở các vùng biên giới được bảo đảm.

Ba, kết quả sinh kế ngày càng được nâng cao góp phần củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh.

Sinh kế của người dân ngày càng đa dạng, thu nhập được nâng lên và đời sống không ngừng cải thiện. Tỷ lệ giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt bình quân 3,4%, riêng tỉnh Cao Bằng đạt trên 4,6%; thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số đạt bình quân 42,7 triệu đồng (tính đến hết 31/12/2024)4. Tiêu biểu, tỉnh Quảng Ninh với nhiều lợi thế, tiềm năng nổi trội nên từ năm 2022 đã không còn hộ nghèo, về đích trước 3 năm chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021- 2025; năm 2024, toàn tỉnh chỉ còn lại 25 hộ cận nghèo5.

Những kết quả sinh kế đạt được đã góp phần ổn định trật tự an ninh – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ở các tỉnh biên giới phía Bắc; củng cố lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp; góp phần tạo bước phát triển đột phá, thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân và củng cố vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc.

Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế, như: nguồn lực sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, thiếu bền vững, chưa gắn kết chặt chẽ với xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh. Chất lượng nguồn nhân lực đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp kém cả về thể lực, trí lực và tâm lực so với nguồn nhân lực chung của cả nước. Tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất, khan hiếm nguồn nước, suy giảm diện tích rừng cũng gây khó khăn, ảnh hưởng tiêu cực đến sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số.

Các vấn đề mới nảy sinh như tranh chấp đất đai, nguồn nước nhiều năm qua ở các tỉnh biên giới phía Bắc có tình trạng khiếu kiện kéo dài, gây mất an ninh trật tự. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, nhất là hệ thống giao thông vận tải yếu kém do địa hình bị chia cắt, hiểm trở, mùa mưa thường xảy ra lũ ống, lũ quét; năm 2024, chỉ tính riêng tỉnh Lào Cai, các tuyến quốc lộ chạy qua địa bàn tỉnh, như: Quốc lộ 4, 4D, 279 sạt taluy dương 246 vị trí, khối lượng sạt 106.884 m3; sạt ta luy âm 22 vị trí, chiều dài 1.242m; ngập úng cục bộ, ách tắc 03 điểm…6 Điều này, gây khó khăn cho sản xuất, buôn bán, sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số cũng như bảo đảm cho việc cơ động lực lượng, phương tiện làm nhiệm vụ quân sự, quốc phòng với lưu lượng và trọng tải lớn. Nguồn vốn tài chính quy mô nhỏ, khó có khả năng để giúp đồng bào dân tộc thiểu số chuyển đổi cơ cấu nghề.

Hoạt động sinh kế chính của đồng bào dân tộc thiểu số là sản xuất nông nghiệp, sản xuất chỉ để đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống đơn giản hàng ngày của gia đình, việc tiếp cận với kinh tế thị trường ở mức thấp; một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn tâm lý ỷ lại, chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Một số mô hình sinh kế được triển khai nhưng chưa quan tâm chú ý đến vấn đề quốc phòng, an ninh. Thiếu các cơ sở sản xuất có khả năng thu hút nhiều lực lượng lao động dư thừa tại chỗ vào sản xuất ra các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có tính chất lưỡng dụng đáp ứng nhu cầu của Nhân dân và lực lượng vũ trang đang làm nhiệm vụ trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc. Sinh kế của các dân tộc thiểu số vẫn phụ thuộc khá nhiều vào khai thác từ rừng. Trong khi đó, việc rừng đang bị khai thác quá mức, các sản phẩm tự nhiên từ rừng ngày càng khan hiếm sẽ dẫn đến nguy cơ tận diệt và còn ảnh hưởng đến môi trường và quốc phòng, an ninh.

Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo dân tộc thiểu số theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025 ở các tỉnh biên giới phía Bắc, năm 2024 còn ở mức rất cao so với bình quân chung của cả nước, như: tỉnh Điện Biên là 42,54%; Cao Bằng là 36,25%; Lai Châu là 35,80%; Lào Cai là 33,83%…7; đời sống của các hộ dân đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, gây tâm lý mặc cảm, tự ti, cộng với sự thiếu hiểu biết về pháp luật cũng dễ dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật vì nhu cầu trước mắt của cuộc sống; đồng thời, tạo cơ hội để các thế lực thù địch, phản động dễ dàng dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc nhằm chia rẽ các dân tộc, chia rẽ Nhân dân với chính quyền.

Vấn đề lao động, việc làm nông thôn, chuyển đổi nghề cho lao động các khu vực dự án thuỷ điện… còn nhiều bất cập; việc dịch chuyển lao động qua – xuyên biên giới và lao động về các tỉnh, thành phố lớn miền xuôi tìm việc làm và ở lại còn khá phổ biến, gây khó khăn cho huy động nguồn nhân lực cho nhiệm vụ quốc phòng, xây dựng và duy trì hoạt động thường xuyên, có hiệu quả của lực lượng dự bị động viên, lực lượng dân quân tự vệ trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc.

3. Một số giải pháp

Thứ nhất, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ ý thức tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số gắn với củng cố “thế trận lòng dân”.

Đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh biên giới phía Bắc – một bộ phận khăng khít, máu thịt trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam cần phải phát huy tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tư cường, tự hào dân tộc, dựa vào nội lực, giữ biên giới, giữ đất, giữ rừng, giữ hồn cốt của dân tộc, quyết tâm vượt lên chính mình, khắc phục tư tưởng bằng lòng, trung bình chủ nghĩa, không ỷ lại, không chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, cố gắng vươn lên thoát nghèo để cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

Mở rộng các hình thức dân chủ phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp để đồng bào dân tộc thiểu số tham gia hiệu quả hơn vào quá trình tổ chức thực hiện chương trình, chính sách, các dự án cụ thể trên nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”8. Duy trì và phát huy các yếu tố tích cực của thiết chế tổ chức truyền thống, tạo liên kết cộng đồng, nhóm dân cư, dân tộc, thực hiện tốt các phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới” để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách bảo đảm sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số gắn với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh vững chắc.

Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chương trình, đề án, chính sách, trọng tâm là giai đoạn II (2026 – 2030) của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030. Quan tâm giải quyết vấn đề thiếu đất sản xuất, đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số. Sớm hoàn thành việc đo đạc, phân loại, xác định các ranh giới rừng, đất rừng, nhất là với các nơi còn chồng lấn, tranh chấp không để phát sinh các “điểm nóng” về an ninh trật tự. Phát triển các loại rừng sản xuất, tạo sinh kế lâm nghiệp thông qua giao khoán các hoạt động trồng rừng, bảo vệ và chăm sóc rừng, khai thác rừng cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn theo nguyên tắc cùng chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ, phát triển rừng và cùng hưởng lợi.

Kết hợp khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên nước với chuyển đổi sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số ở những nơi triển khai các dự án thuỷ điện. Gắn kết giữa đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nhất là hạ tầng giao thông, thương mại với xây dựng các công trình quốc phòng, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường bảo đảm nguồn lực vật chất vừa phục vụ phát triển kinh tế, vừa phục vụ quốc phòng. Mặt khác, cần có chính sách đặc thù, hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất, bao tiêu sản phẩm, đa dạng hóa các mô hình sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số, giữ vững thế trận quốc phòng toàn dân.

Thứ ba, chú trọng cải thiện nguồn lực con người, quan tâm giải quyết việc làm, bố trí lại dân cư gắn với củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh.

Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thu hẹp khoảng cách phát triển giáo dục giữa khu vực miền núi và miền xuôi. Quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Thông báo số 81-TB/TW ngày 18/7/2025 của Bộ Chính trị về chủ trương đầu tư xây dựng trường học cho các xã biên giới. Việc đầu tư xây dựng trường học cho các xã biên giới đất liền trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc “là một nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội và thực hiện chính sách dân tộc nhằm nâng cao dân trí, chất lượng nhân lực, tạo nguồn cán bộ là người dân tộc, địa phương, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào vùng biên giới góp phần củng cố quốc phòng, an ninh”9.

Hạn chế tình trạng dịch chuyển lao động tự do, tổ chức tốt việc định canh, định cư tại chỗ và có chính sách phù hợp để động viên, điều chỉnh dân cư từ các nơi khác đến vùng núi biên giới, vùng sâu, vùng xa. Kết hợp giữa quá trình phân công lại lao động, phân bố lại dân cư với tổ chức, xây dựng và điều chỉnh, bố trí lại lực lượng quốc phòng trên từng địa bàn cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cũng như kế hoạch phòng thủ bảo vệ biên giới.

Thứ tư, phát huy vai trò của lực lượng vũ trang địa phương trong tham gia bảo đảm sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số gắn với quốc phòng, an ninh.

Phát huy vai trò của các đoàn kinh tế – quốc phòng, đồn Biên phòng đóng quân ở những vị trí trọng yếu trên các địa bàn chiến lược, khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa của các tỉnh biên giới phía Bắc. Đây là lực lượng nòng cốt trong xóa đói, giảm nghèo, tổ chức lại dân cư, xây dựng nông thôn mới và triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, hỗ trợ vốn, con giống, cây trồng cho đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế gia đình, từng bước thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” biết áp dụng khoa học vào sản xuất, cải thiện đời sống.

Đồng thời, kết hợp công tác vận động quần chúng với công tác nghiệp vụ; nắm chắc tình hình, quản lý tốt lao động qua biên giới. Quản lý, kiểm soát và xử lý kịp thời các “điểm nóng” có tính phức tạp, nhất là các vụ việc đã kéo dài liên quan đến đất đai, rừng, thu hồi đất; tập trung giải quyết dứt điểm vấn đề đất đai có liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số; góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế.

4. Kết luận

Bảo đảm sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số gắn với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh ở các tỉnh biên giới phía Bắc là nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh cả nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình. Vì vậy, cần triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm khơi dậy nội lực cộng đồng, hoàn thiện cơ chế chính sách, đầu tư nguồn nhân lực và hạ tầng thiết yếu, đồng thời phát huy vai trò của lực lượng vũ trang tại địa bàn chiến lược. Chỉ trên cơ sở đó, vùng biên giới phía Bắc mới trở thành khu vực phát triển bền vững, vừa bảo đảm an sinh xã hội, vừa giữ vững chủ quyền và an ninh biên giới quốc gia.

Chú thích:
1. Từ ngày 01/7/2025, sau sắp xếp địa giới hành chính cả nước còn 34 tỉnh, thành phố; với 7 tỉnh biên giới phía Bắc là Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh.
2. UBND tỉnh Lào Cai (2025). Báo cáo số 02/BC-UBND ngày 06/01/2025 về tình hình phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh tháng 12 và cả năm 2024; nhiệm vụ chủ yếu tháng 01 và Quý I/2025 tỉnh Lào Cai.
3. Cục Thống kê tỉnh Lai Châu (2025). Báo cáo số 03/BC-CTK ngày 02/01/2025 về tình hình kinh tế xã hội tháng 12 và năm 2024 tỉnh Lai Châu.
4. Bộ Dân tộc và Tôn giáo (2025). Báo cáo số 169/BC-BDTTG ngày 30/3/2025 về tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu sô và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 và kiến nghị, giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.
5. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2025). Quyết định số 217/QĐ – BLĐTBXH ngày 04/02/2025 về công bố kết quả rà soát hộ nghèo, cận nghèo năm 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025.
6. UBND tỉnh Lào Cai (2025). Báo cáo số 02/BC-UBND ngày 06/01/2025 về tình hình phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh tháng 12 và cả năm 2024; nhiệm vụ chủ yếu tháng 01 và Quý I/2025 tỉnh Lào Cai.
7. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2025). Quyết định số 217/QĐ-BLĐTBXH ngày 04/02/2025 về công bố kết quả rà soát hộ nghèo, cận nghèo năm 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 27.
9. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Thông báo số 81-TB/TW ngày 18/7/2025 kết luận của Bộ Chính trị về chủ trương đầu tư xây dựng trường học cho các xã biên giới.