Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước

Nguyễn Trần Kiều Trinh
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam là xây dựng hệ thống chính trị hiện đại, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển nhanh và bền vững. Từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, từng bước định hình rõ hơn mô hình tổ chức và cơ chế vận hành. Bài viết tập trung phân tích chủ trương và quá trình lãnh đạo của Đảng trong tổ chức thực hiện, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân; đồng thời rút ra một số kinh nghiệm nhằm góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới.

Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống chính trị, lãnh đạo, đổi mới, phát triển bền vững.

1. Đặt vấn đề

Đảng và Nhà nước luôn xác định đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, yêu cầu đặt ra là hệ thống chính trị phải thực sự tinh gọn, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thích ứng linh hoạt với những biến đổi nhanh chóng của đời sống chính trị – xã hội. Những năm qua, nhiều chủ trương, nghị quyết quan trọng đã được Đảng và Nhà nước ban hành, tạo bước chuyển căn bản trong việc sắp xếp, đổi mới, coi đây như một “cuộc cách mạng” về tổ chức bộ máy nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

Tuy nhiên, kết quả đạt được mới là bước đầu; hệ thống tổ chức còn những hạn chế, bất cập, cần tiếp tục được nghiên cứu, điều chỉnh và hoàn thiện. Vì vậy, việc phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới có ý nghĩa thời sự và cấp thiết, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.

2. Chủ trương và quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị

Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là vấn đề vừa lớn, vừa quan trọng, đồng thời cũng rất khó khăn, phức tạp và nhạy cảm gắn liền với phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân. Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, Đảng đã dành sự quan tâm đặc biệt cho việc đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị.

Ngay từ những năm đầu đổi mới, Bộ Chính trị đã ban hành nghị quyết về kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực bộ máy nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, thẳng thắn chỉ ra tình trạng tổ chức cồng kềnh, hiệu quả thấp. Tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI, 1989), lần đầu tiên Đảng sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” thay cho “hệ thống chuyên chính vô sản”. Đây là bước phát triển quan trọng về nhận thức lý luận, phản ánh sự thay đổi căn bản trong tư duy chính trị, mở đường cho những cải cách tiếp theo.

Đại hội VII (1991) tiếp tục nhấn mạnh cải cách bộ máy Nhà nước theo hướng “của dân, do dân, vì dân”, quản lý xã hội bằng pháp luật, tinh giản biên chế và nâng cao hiệu lực quản lý. Đại hội VIII (1996) cụ thể hóa chủ trương đổi mới, củng cố hệ thống chính trị trên cả ba phương diện chính trị, tư tưởng, tổ chức, đồng thời đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Tuy nhiên, quá trình sắp xếp bộ máy vẫn diễn ra chậm, còn biểu hiện quan liêu, vi phạm dân chủ.

Trong các nhiệm kỳ tiếp theo (Đại hội IX – XI), Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận quan trọng về tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế. Các văn kiện này tập trung vào đổi mới, kiện toàn cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể theo hướng tinh gọn, khắc phục chồng chéo, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ; đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất thể hóa một số cơ quan và chức danh, hoàn thiện thể chế, gắn đổi mới tổ chức với cải cách tiền lương, chế độ công vụ.

Đến Đại hội XII (2016), Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả; gắn đổi mới với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng cán bộ; nghiên cứu thí điểm hợp nhất một số cơ quan Đảng – Nhà nước tương đồng; kiêm nhiệm một số chức danh”1. Đặc biệt, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định rõ yêu cầu sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời gắn tinh giản biên chế với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Ngày 21/01/2025, Ban Chỉ đạo Trung ương tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW đã báo cáo kết quả bước đầu về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy từ trung ương đến cơ sở. Quá trình triển khai được tiến hành đồng bộ, khẩn trương, nghiêm túc với tinh thần “Trung ương làm gương, địa phương hưởng ứng”. Kết quả tổng kết cho thấy những nỗ lực vượt bậc và sự đổi mới mạnh mẽ trong nhận thức, quyết tâm chính trị và hành động của Đảng, thể hiện tầm nhìn chiến lược trong việc xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hiện đại, hiệu lực và hiệu quả.

Từ quá trình nghiên cứu chủ trương và quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị cho thấy, quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị là một tiến trình vừa có tính cách mạng, vừa mang tính kế thừa, thể hiện rõ sự phát triển tư duy lý luận gắn liền với thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Thứ nhất, về khái niệm và tư duy, Đảng đã có bước chuyển căn bản từ “hệ thống chuyên chính vô sản” sang “hệ thống chính trị”, phản ánh nhận thức mới, phù hợp với yêu cầu phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời khắc phục hạn chế của tư duy quản lý tập trung, quan liêu trước đây. Đây không chỉ là sự thay đổi về thuật ngữ mà còn là bước tiến lớn trong lý luận chính trị, mở đường cho việc vận hành hệ thống chính trị theo hướng hiện đại, hiệu lực, hiệu quả.

Thứ hai, về mô hình tổ chức, Đảng chủ trương xây dựng bộ máy tinh gọn, có sự phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, giảm chồng chéo, trùng lặp. Sự ra đời của nhiều nghị quyết, đặc biệt là Nghị quyết số 18-NQ/TW, đã đánh dấu nỗ lực quyết liệt trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy, coi đây là “cuộc cách mạng” về tổ chức, nhằm tạo chuyển biến thực chất trong quản lý và lãnh đạo.

Thứ ba, về phương thức hoạt động, quá trình đổi mới được gắn chặt với cải cách hành chính, tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng cán bộ, bảo đảm cho hệ thống chính trị không chỉ hoạt động đúng chức năng mà còn hiệu quả trong phục vụ Nhân dân và phát triển đất nước. Đây là sự chuyển biến từ việc chỉ chú trọng cơ cấu tổ chức sang quan tâm đến hiệu lực thực thi, đề cao trách nhiệm giải trình và năng lực điều hành.

Thứ tư, đổi mới hệ thống chính trị được đặt trong mối quan hệ biện chứng với yêu cầu phát triển bền vững, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu hội nhập quốc tế và thích ứng với bối cảnh mới như toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp 4.0, biến đổi khí hậu. Chính sự gắn kết này cho thấy tầm nhìn chiến lược của Đảng trong việc xây dựng hệ thống chính trị vừa mang tính dân tộc, vừa bắt nhịp xu thế thời đại, bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới phát triển ổn định, bền vững.

3. Quá trình Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới

3.1. Đối với hệ thống tổ chức Đảng

Quy định số 232-QĐ/TW ngày 20/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương về việc lập tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội đã cụ thể hóa chủ trương tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong hệ thống chính trị. Văn kiện này tạo cơ sở pháp lý thống nhất để tổ chức, sắp xếp lại hệ thống đảng bộ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, ở cấp Trung ương thành lập bốn đảng bộ trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương, gồm: Đảng bộ Quốc hội, Đảng bộ Chính phủ, Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội. Việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các đảng bộ này thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ Chính trị; Ban Tổ chức Trung ương có trách nhiệm tham mưu, hướng dẫn và quản lý biên chế của cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc.

Đối với hệ thống bộ, ngành, Kiểm toán Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội và hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, Quy định số 232-QĐ/TW quy định việc thành lập đảng bộ, chi bộ trực thuộc các đảng ủy cấp trên, trên cơ sở có ý kiến thống nhất của Ban Tổ chức Trung ương. Riêng trong Quốc hội, Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội được trao thẩm quyền quyết định thành lập và trực tiếp lãnh đạo tổ chức đảng tại các đoàn đại biểu Quốc hội.

Ở cấp tỉnh, thành phố, yêu cầu thành lập Đảng bộ Ủy ban nhân dân trực thuộc Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, thành phố; Ban Thường vụ tỉnh ủy, thành ủy quyết định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy theo quy định của Ban Bí thư. Hệ thống đảng bộ cơ quan Đảng cũng được cơ cấu lại: ở trung ương là Đảng bộ các cơ quan Đảng Trung ương; ở địa phương là Đảng bộ các cơ quan Đảng tỉnh, thành phố, có quyền thành lập tổ chức cơ sở đảng tại các cơ quan tư pháp, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội2.

Trên cơ sở Quy định số 232-QĐ/TW, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025, thống nhất phương án sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy cơ quan Đảng. Theo đó, chấm dứt hoạt động của Ban Đối ngoại Trung ương (chuyển chức năng, nhiệm vụ về Bộ Ngoại giao và Đảng ủy Bộ Ngoại giao), kết thúc hoạt động của Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, các đảng đoàn và ban cán sự đảng ở Trung ương, ở cấp tỉnh3.

Ngày 03/02/2025, Bộ Chính trị công bố các quyết định thành lập và chỉ định nhân sự bốn Đảng bộ trực thuộc Trung ương, đồng thời quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và mối quan hệ công tác của ba cơ quan Đảng ở Trung ương (Văn phòng Trung ương Đảng, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Ban Chính sách – Chiến lược Trung ương). Cùng thời điểm, Bộ Chính trị công bố việc kết thúc hoạt động của các đảng đoàn, ban cán sự đảng do Ban Bí thư thành lập và thực hiện việc hợp nhất, đổi tên một số cơ quan tham mưu: hợp nhất Ban Tuyên giáo Trung ương và Ban Dân vận Trung ương thành Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương; đổi tên Ban Kinh tế Trung ương thành Ban Chính sách – Chiến lược Trung ương4.

Như vậy, hệ thống tổ chức Đảng đã có những thay đổi căn bản: kết thúc hoạt động một số cơ quan Đảng, hợp nhất và tái cơ cấu các ban tham mưu, thành lập bốn đảng bộ trực thuộc Trung ương. Kết quả thực tiễn cho thấy, đến nay đã giảm 4 cơ quan Đảng trực thuộc Trung ương; 25 ban cán sự đảng; 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương; 30 đầu mối cấp tổng cục; hơn 1.000 đơn vị cấp cục, vụ; trên 4.400 đầu mối cấp chi cục, phòng; cùng hàng trăm đơn vị sự nghiệp. Ở địa phương, đã giảm 466 sở, ngành; 644 đoàn, đảng đoàn, ban cán sự đảng; gần 4.000 đơn vị cấp phòng; 27 đảng bộ cấp trên trực tiếp và nhiều tổ chức cơ sở đảng5. Đây là bước đi quyết liệt nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động.

Những điều chỉnh này khẳng định quyết tâm chính trị nhất quán của Đảng trong việc xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động đồng bộ và hiệu quả; đồng thời củng cố vai trò lãnh đạo thống nhất, toàn diện của Đảng trong bối cảnh đổi mới và hội nhập, tạo nền tảng cho nâng cao chất lượng quản trị quốc gia và niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

3.2. Đối với hệ thống tổ chức của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở

Sau quá trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức, cơ cấu bộ máy của Quốc hội có nhiều thay đổi căn bản. Các cơ quan của Quốc hội hiện nay gồm Hội đồng Dân tộc và 7 ủy ban (giảm 2 ủy ban so với trước). Cụ thể: Ủy ban Pháp luật và Tư pháp; Ủy ban Kinh tế – Tài chính; Ủy ban Văn hóa – Xã hội; Ủy ban Quốc phòng, An ninh – Đối ngoại; Ủy ban Khoa học, Công nghệ – Môi trường; Ủy ban Dân nguyện – Giám sát; Ủy ban Công tác đại biểu. Việc cơ cấu lại cũng kéo theo những điều chỉnh chức năng: chấm dứt hoạt động của Ủy ban Đối ngoại, chuyển nhiệm vụ về Ủy ban Quốc phòng, An ninh – Đối ngoại, Văn phòng Quốc hội và Bộ Ngoại giao; đồng thời, sáp nhập các ủy ban có chức năng tương đồng như Ủy ban Pháp luật với Ủy ban Tư pháp; Ủy ban Kinh tế với Ủy ban Tài chính – Ngân sách; Ủy ban Văn hóa, Giáo dục với Ủy ban Xã hội6.

Ở Chính phủ, việc triển khai Nghị quyết số 176/2025/QH15 ngày 18/02/2025 về cơ cấu tổ chức đã dẫn đến việc xác định rõ 14 bộ và 3 cơ quan ngang bộ, thay vì 18 đầu mối như trước. Trong đó, có sự điều chỉnh đáng chú ý: hợp nhất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Tài nguyên và Môi trường thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường; sắp xếp lại Bộ Khoa học và Công nghệ với chức năng được mở rộng về đổi mới sáng tạo; đồng thời đổi mới cơ chế lãnh đạo Đảng trong Chính phủ khi Thủ tướng giữ cương vị Bí thư Đảng ủy Chính phủ, các Phó Thủ tướng và một số Bộ trưởng tham gia Ban Thường vụ7. Kết quả tinh gọn đạt được: giảm 13/13 tổng cục; 519 cục (tương đương 77,6%); 219 vụ (54,1%); 3.303 chi cục (91,7%); 203 đơn vị sự nghiệp công lập8.

Quá trình này đã khắc phục căn bản tình trạng chồng chéo, “vừa đá bóng vừa thổi còi” trong quản lý, khi một số cơ quan trước đây vừa hoạch định chính sách vừa trực tiếp tổ chức thực hiện, dễ dẫn đến xung đột lợi ích. Bên cạnh đó, việc sáp nhập các sở, ngành ở địa phương (như: Sở Giao thông Vận tải và Sở Xây dựng; Sở Kế hoạch và Đầu tư với Sở Tài chính; Sở Lao động – Thương binh và Xã hội với Sở Nội vụ; Sở Khoa học và Công nghệ với Sở Thông tin – Truyền thông) đã tạo hiệu ứng tích cực: giảm tầng nấc trung gian, tăng cường phối hợp liên ngành, tiết kiệm ngân sách và cải thiện năng lực quản trị địa phương9.

Tính đến ngày 30/3/2025, cả nước đã giảm 343 cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh (tương đương 29,1%). Theo báo cáo của Bộ Nội vụ, từ 2015 đến 2023, cả nước đã tinh giản 84.140 biên chế, bình quân giảm khoảng 10% mỗi năm, qua đó chi phí hoạt động giảm, hiệu suất quản lý tăng, thủ tục hành chính được xử lý nhanh hơn khoảng 30%10. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 11 (khóa XIII) (tháng 4/2025) đã quyết định tổ chức chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, chấm dứt hoạt động của cấp huyện từ ngày 01/7/2025. Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 xác định Việt Nam có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh (28 tỉnh và 6 thành phố trực thuộc Trung ương), giảm hàng trăm đơn vị hành chính cấp huyện và xã, tái cơ cấu địa giới hành chính theo hướng khoa học, tinh gọn và phù hợp hơn với yêu cầu phát triển hiện đại11.

Những điều chỉnh này cho thấy, quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong việc xây dựng bộ máy Nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả gắn liền với mục tiêu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Đây cũng là bước phát triển nhận thức mới của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó Nhà nước không chỉ quản lý bằng quyền lực công mà còn kiến tạo phát triển, phục vụ Nhân dân và thích ứng linh hoạt với bối cảnh toàn cầu hóa.

3.3. Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội

Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Trung ương, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã chủ động ban hành kế hoạch, thành lập Ban Chỉ đạo, Tổ biên tập và xây dựng một loạt đề án lớn nhằm sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy. Nổi bật trong số đó là: Đề án sắp xếp, tinh gọn cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, được Ban Chấp hành Trung ương thông qua tại Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/202512; Đề án về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Bộ Chính trị ban hành tại Quyết định số 304-QĐ/TW ngày 10/6/202513; và Đề án về tổ chức, cán bộ cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Ban Thường vụ Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Trung ương phê duyệt14.

Song song với việc hoàn thiện các đề án, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức thành viên đã tham gia đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của Hiến pháp năm 2013 liên quan đến vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể15; đồng thời đóng góp ý kiến vào các dự án luật quan trọng, như: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi), Luật Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở16. Bên cạnh đó, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành nhiều văn bản hướng dẫn việc sắp xếp bộ máy theo mô hình chính quyền hai cấp, bảo đảm đồng bộ với quá trình đổi mới hệ thống chính trị chung của Đảng.

Kết quả bước đầu cho thấy, đến tháng 02/2025, hệ thống Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã giảm từ 284 đầu mối xuống còn 159, tinh giản từ 2.720 biên chế xuống còn 2.185 biên chế17. Triển khai Quyết định số 304-QĐ/TW, số lượng ban, đơn vị chuyên môn thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giảm mạnh từ 36 xuống còn 19, với tổng số biên chế chỉ còn 986 người. Cơ cấu mới được tổ chức theo hướng chuyên sâu, gồm: Văn phòng; Ban Tổ chức – Kiểm tra; Ban Dân chủ, Giám sát và Phản biện xã hội; Ban Công tác xã hội; Ban Tuyên giáo; Ban Dân tộc và Tôn giáo; Ban Đối ngoại Nhân dân; Cục Tài chính – Kế hoạch; cùng các ban đặc thù như Ban Công tác Công đoàn, Quan hệ lao động, Nông dân, Đoàn, Thanh thiếu niên, Phụ nữ, Cựu chiến binh18.

Ở cấp địa phương, Ban Tổ chức Trung ương ban hành Hướng dẫn số 31-HD/BTCTW ngày 23/4/2025 và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành Hướng dẫn số 18-HD/MTTW-BTT ngày 02/6/2025, kèm Công văn số 1018/CV-MTTW-BTT ngày 13/6/2025, chỉ đạo các tỉnh ủy, thành ủy hoàn tất sắp xếp, hợp nhất cơ quan tham mưu, thành lập Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh theo mô hình mới19. Đến tháng 6/2025, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành 22 quyết định thành lập Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, công nhận 3.077 Ủy viên Ủy ban ở 34 tỉnh, thành phố, kiện toàn 327 Ủy viên Ban Thường trực, trong đó 33/34 tỉnh có Chủ tịch và 22/34 Phó Bí thư cấp ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh20.

Trong giai đoạn tới, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục triển khai đồng bộ Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025Kế hoạch số 56-KH/BCĐ ngày 04/7/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệm kỳ 2026-203121. Đây là bước đi có ý nghĩa quan trọng, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong việc đổi mới, tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, qua đó củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

4. Kết quả và nguyên nhân từ thực tiễn lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị của Đảng

Một là, bộ máy chính quyền địa phương hai cấp vận hành bước đầu ổn định, thông suốt. Hầu hết các địa phương đã hoàn tất việc sắp xếp tổ chức, bảo đảm hoạt động hành chính liên tục, không gián đoạn. Chính quyền các tỉnh hợp nhất và xã mới thành lập nhanh chóng đi vào hoạt động, không để xảy ra khoảng trống quản lý. Tính đến tháng 7/2025, 32/34 địa phương đã thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh và 3.127 trung tâm cấp xã, riêng Hà Nội và Quảng Ninh áp dụng mô hình một cấp linh hoạt22.

Hai là, dịch vụ hành chính công duy trì ổn định trong quá trình chuyển đổi. Cổng Dịch vụ công quốc gia được nâng cấp, kết nối với 34/34 hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh, đáp ứng 120.000 người dùng đồng thời (mức cao nhất ghi nhận 50.000, đạt 41,6% công suất)23.

Ba là, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững. Dù thay đổi địa giới hành chính ở nhiều nơi, tình hình nhìn chung ổn định, Nhân dân đồng thuận, thể hiện sự đồng tình với chủ trương của Đảng và Nhà nước24.

Bốn là, công tác chỉ đạo, điều hành từ Trung ương đến cơ sở thông suốt, đồng bộ. Trong tháng đầu tiên, Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành trên 60 văn bản hướng dẫn, đồng thời cử nhiều tổ công tác kiểm tra tại chỗ, tháo gỡ kịp thời khó khăn25.

Năm là, cải cách thủ tục hành chính gắn với phân cấp, phân quyền được đẩy mạnh. Chính phủ đã ban hành 28 nghị định, phân cấp 556 thủ tục từ Trung ương xuống địa phương, điều chuyển 296 thủ tục cho cấp huyện và xã, đồng thời bãi bỏ 74 thủ tục không còn phù hợp. Một số bộ giảm đáng kể thủ tục trong thẩm quyền: Bộ Tư pháp (18,1%), Bộ Nội vụ (26,4%), Thanh tra Chính phủ (32,3%), Bộ Giáo dục và Đào tạo (36%)26.

Sáu là, việc giải quyết chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức, viên chức được triển khai nghiêm túc. Đến ngày 25/7/2025, cả nước có hơn 85.580 người nghỉ việc, trong đó trên 78.400 người nghỉ hưu hoặc thôi việc; 75.000 người được phê duyệt kinh phí hỗ trợ, 41.800 người đã nhận tiền27.

Những kết quả trên phản ánh rõ quyết tâm chính trị, năng lực tổ chức thực hiện của hệ thống chính trị các cấp, cũng như sự ủng hộ của nhân dân. Đây không chỉ là thành tựu trước mắt mà còn tạo tiền đề chiến lược cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả bộ máy chính quyền trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị toàn diện.

Bên cạnh kết quả đạt được, quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị vẫn còn những hạn chế, bất cập chủ yếu sau:

Việc sắp xếp, kiện toàn bộ máy ở một số địa phương chưa đồng bộ; chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan còn chồng chéo, nhất là cấp huyện và xã. Khoảng 8,5% phòng, ban chuyên môn cấp huyện chưa bảo đảm yêu cầu tinh gọn; hệ thống pháp luật về tổ chức chính quyền hai cấp còn thiếu, nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm, gây lúng túng trong thực hiện28.

Chất lượng đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, một bộ phận chưa đáp ứng yêu cầu về năng lực quản trị hiện đại, kỹ năng số, ngoại ngữ. Khoảng 70% công chức cấp xã là lực lượng cũ, 30% luân chuyển từ cấp trên, dẫn đến thiếu đồng bộ về trình độ. Việc thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Bộ Chính trị ở một số nơi còn hình thức, chưa gắn chặt với công tác quy hoạch, đào tạo và đánh giá cán bộ29. Phương thức hoạt động của một số tổ chức trong hệ thống chính trị chậm đổi mới, chưa sát nhu cầu nhân dân. Hoạt động giám sát, phản biện xã hội ở nhiều nơi chưa sâu, cơ chế phối hợp giải quyết kiến nghị cử tri còn thiếu kịp thời30.

Cơ chế phân bổ ngân sách và hạ tầng kỹ thuật còn hạn chế. Nhiều xã sau sáp nhập quản lý địa bàn rộng nhưng nguồn lực không tăng tương ứng; hạ tầng công nghệ thông tin ở vùng sâu, vùng xa yếu kém; tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 mới đạt 38% (so với mục tiêu 50% giữa năm 2025)31. Tình trạng lãng phí tài sản công còn lớn, cả nước còn trên 9.000 cơ sở nhà, đất dôi dư chưa xử lý32. Thực tiễn địa phương cho thấy, những hạn chế này tác động trực tiếp đến hiệu quả quản lý: TP. Hồ Chí Minh thí điểm chính quyền đô thị đạt kết quả bước đầu nhưng còn vướng trong phân định trách nhiệm giữa UBND quận và sở, ngành; thành phố Đà Nẵng gặp khó khi xã sáp nhập nhưng ngân sách, biên chế không tăng; Quảng Ninh đi đầu sáp nhập nhưng vẫn còn hơn 150 cơ sở công sản dôi dư chưa được xử lý, gây lãng phí33.

Những hạn chế trên bắt nguồn từ cả nguyên nhân khách quan (khung pháp lý chưa đồng bộ, điều kiện phát triển không đều) và chủ quan (một bộ phận cán bộ thiếu năng lực, sự chỉ đạo ở một số nơi chưa quyết liệt).

Trước hết, bối cảnh quốc tế và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo, nhất là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, biến đổi khí hậu, dịch bệnh toàn cầu và các thách thức an ninh phi truyền thống đã tác động trực tiếp đến mọi lĩnh vực đời sống, đặt ra yêu cầu mới đối với hệ thống chính trị nước ta. Đồng thời, quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng đòi hỏi thể chế quản trị hiện đại, hạ tầng số và nguồn nhân lực chất lượng cao, trong khi nền tảng xuất phát của ta ở nhiều mặt còn hạn chế.

Bên cạnh đó, ở một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, nhận thức và quyết tâm đổi mới chưa thật sự đồng đều; vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu có nơi chưa phát huy cao độ; sự phối hợp giữa các cơ quan còn thiếu chặt chẽ, dẫn tới chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ. Công tác kiểm tra, giám sát tổ chức bộ máy và cán bộ vẫn nặng hình thức, thiếu cơ chế phản biện và giải pháp thực chất. Việc phân bổ nguồn lực tài chính, nhân lực và hạ tầng cho cải cách hành chính, chuyển đổi số chưa hợp lý, tạo ra sự chênh lệch giữa các địa phương, làm tiến độ và chất lượng thực hiện chưa đạt yêu cầu đề ra.

5. Một số kinh nghiệm

Thứ nhất, quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, bám sát quy định của pháp luật trong tổ chức thực hiện. Kinh nghiệm cho thấy, để đổi mới tổ chức bộ máy đạt hiệu quả, cần bảo đảm sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn hệ thống chính trị về sắp xếp tổ chức bộ máy thì quá trình triển khai mới đồng bộ, không bị cắt khúc, từ đó tạo sự đồng thuận xã hội và củng cố niềm tin của Nhân dân.

Thứ hai, chuẩn bị kỹ lưỡng phương án tổ chức bộ máy và nhân sự. Thực tiễn chứng minh, khâu nhân sự có tính quyết định đến sự thành công của mô hình. Việc rà soát, bố trí lại vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức, đồng thời tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ theo chức trách, nhiệm vụ là điều kiện tiên quyết. Bên cạnh đó, đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản trị hiện đại, công nghệ thông tin và năng lực tiếp công dân là giải pháp căn cơ để đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thích ứng với yêu cầu mới.

Thứ ba, bảo đảm nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ. Kinh nghiệm nhiều địa phương cho thấy, nếu thiếu nguồn lực bảo đảm thì mô hình khó phát huy hiệu quả. Do đó, việc phân bổ ngân sách, kết hợp huy động xã hội hóa, nâng cấp trụ sở, hiện đại hóa trang thiết bị số, xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung là những yếu tố then chốt giúp bộ máy hoạt động thông suốt và phục vụ Nhân dân tốt hơn.

Thứ tư, phân cấp, phân quyền gắn liền với kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Để tránh tình trạng chồng chéo hoặc bỏ trống trách nhiệm cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ giữa các cấp chính quyền; đồng thời, thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên. Qua đó vừa bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, vừa nâng cao trách nhiệm giải trình, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với hệ thống chính trị.

Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận xã hội. Một kinh nghiệm sâu sắc là đổi mới bộ máy chỉ thành công khi gắn với sự đồng thuận của nhân dân. Việc thông tin minh bạch, phổ biến rộng rãi về mục tiêu, ý nghĩa, lợi ích của mô hình chính quyền hai cấp giúp Nhân dân hiểu, ủng hộ và đồng hành cùng hệ thống chính trị. Đây cũng là một biểu hiện sinh động của phương châm “lấy dân làm gốc” trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Thứ sáu, thường xuyên sơ kết, tổng kết và nhân rộng mô hình hiệu quả. Quá trình đổi mới luôn đòi hỏi sự đánh giá kịp thời, rút kinh nghiệm sâu sắc và điều chỉnh phù hợp với thực tiễn. Những địa phương có cách làm sáng tạo, hiệu quả cần được tổng kết, phổ biến và nhân rộng, qua đó góp phần thúc đẩy cải cách tổ chức bộ máy đồng bộ trên phạm vi toàn quốc.

6. Kết luận

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống chính trị từng bước được kiện toàn, phát huy vai trò trung tâm trong quản lý xã hội, tổ chức đổi mới và huy động sức mạnh tổng hợp của Nhân dân trong sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn gần 40 năm đổi mới đã chứng minh, Đảng giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện không chỉ là yêu cầu chính trị trước mắt mà còn là đòi hỏi khách quan mang tầm chiến lược lâu dài, bảo đảm cho đất nước phát triển ổn định, bền vững. Kiên định quan điểm đó là cơ sở lý luận và thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính trị Việt Nam, hướng tới một nền chính trị hiện đại, dân chủ, pháp quyền, hiệu quả và thích ứng với kỷ nguyên hội nhập quốc tế sâu rộng.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 204.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025a). Quy định số 232-QĐ/TW ngày 20/01/2025 về việc thành lập tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025b). Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 về phương án sắp xếp tổ chức bộ máy cơ quan Đảng.
4. Bộ Chính trị (2025). Quyết định ngày 03/02/2025 về thành lập các Đảng bộ trực thuộc Trung ương và sắp xếp lại cơ quan tham mưu, giúp việc.
5. Ban Tổ chức Trung ương (2025). Báo cáo tình hình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị sau khi thực hiện Quy định số 232 và Kết luận số 121.
6. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 176/2025/QH15 ngày 18/02/2025 về cơ cấu tổ chức của Quốc hội.
7. Bộ Chính trị (2025). Quyết định số 243-QĐ/TW ngày 24/01/2025 về thành lập Đảng bộ Chính phủ.
8. Bộ Nội vụ (2025). Báo cáo tổng kết việc sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2025.
9. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
10. Bộ Nội vụ (2024). Báo cáo tình hình tinh giản biên chế giai đoạn 2015-2023.
11. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện, xã giai đoạn 2025 – 2030.
12. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
13. Bộ Chính trị (2025). Quyết định số 304-QĐ/TW ngày 10/6/2025 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
14. Ban Thường vụ Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Trung ương (2025). Quyết định phê duyệt Đề án về tổ chức, cán bộ cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
15. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.
16. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2024 – 2025). Văn bản tham gia góp ý các dự án luật: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi), Luật Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở.
17. Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2025). Báo cáo kết quả bước đầu sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội đến tháng 02/2025.
18. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2025). Đề án kiện toàn cơ cấu tổ chức các ban, đơn vị chuyên môn thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo Quyết định số 304-QĐ/TW.
19. Ban Tổ chức Trung ương (2025). Hướng dẫn số 31-HD/BTCTW ngày 23/4/2025 về tổ chức Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh theo mô hình mới.
20. Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2025). Quyết định thành lập Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh nhiệm kỳ 2024-2029.
21. Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện tổ chức bộ máy hệ thống chính trị (2025). Kế hoạch số 56-KH/BCĐ ngày 04/7/2025 về tiếp tục triển khai Nghị quyết số 60-NQ/TW.
22. Bộ Nội vụ (2025). Báo cáo kết quả triển khai Nghị quyết số 60-NQ/TW về sắp xếp đơn vị hành chính.
23. Văn phòng Chính phủ (2025). Thông cáo về vận hành Cổng dịch vụ công quốc gia sau khi tái cấu trúc chính quyền địa phương.
24. Ban Tuyên giáo Trung ương (2025). Báo cáo tổng hợp dư luận xã hội tháng 7/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính.
25. Chính phủ (2025). Hệ thống văn bản hướng dẫn triển khai Nghị quyết số 60-NQ/TW.
26. Bộ Nội vụ (2025). Báo cáo cải cách thủ tục hành chính gắn với phân cấp, phân quyền năm 2025.
27. Bộ Tài chính (2025). Báo cáo giải quyết chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức sau sắp xếp đơn vị hành chính.
28. Bộ Nội vụ (7/2025). Báo cáo tình hình sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương.
29. Ban Tổ chức Trung ương (2018). Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp.
30. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2025). Báo cáo tổng kết hoạt động giám sát và phản biện xã hội.
31. Văn phòng Chính phủ (2025). Thông cáo về tiến độ chuyển đổi số và cung cấp dịch vụ công trực tuyến.
32. Bộ Tài chính (2025). Báo cáo quản lý, sử dụng tài sản công sau sắp xếp đơn vị hành chính.
33. Ban Tuyên giáo Trung ương (2025). Tổng hợp tình hình dư luận xã hội về thí điểm chính quyền đô thị và sắp xếp đơn vị hành chính.