Nguyễn Thị Lan Anh
Đại học Thái Nguyên
Đào Thị Hương
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh
(Quanlynhanuoc.vn) – Khu vực Đông Bắc Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú, đa dạng và được ủng hộ thuận lợi cho quá trình phát triển nông nghiệp miền núi đặc trưng. Với vai trò là lực lượng xung kích quan trọng trong tiến trình giúp ngành nông nghiệp hội nhập, vươn ra thị trường không chỉ trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu, những nông dân trẻ tại đây đã sử dụng phương tiện truyền thông xã hội để tiêu thụ nông phẩm không chỉ là một xu hướng mang tính thời đại mà còn mang ý nghĩa chiến lược sâu sắc trong tiến trình hiện đại hóa và số hóa ngành nông nghiệp. Bài viết nghiên cứu thực trạng sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội của nông dân trẻ trong tiêu thụ nông phẩm tại khu vực Đông Bắc, Việt Nam nhằm làm rõ từ nhận thức, đến mức độ hiệu quả, tần suất sử dụng, ngân sách và phương pháp xác định ngân sách truyền thông xã hội cho nông phẩm. Kết quả nghiên cứu giúp thúc đẩy hình thành cộng đồng nông dân số, tăng cường sự học hỏi lẫn nhau và khả năng liên kết theo chuỗi giá trị. Như vậy, việc ứng dụng truyền thông xã hội không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn mang tính xã hội và văn hóa sâu rộng, góp phần tạo nên thế hệ nông dân hiện đại, chủ động, sáng tạo và làm chủ quá trình tiêu thụ nông phẩm trong kỷ nguyên số.
Từ khóa: Phương tiện truyền thông xã hội, nông dân trẻ, chuyển đổi số, nông phẩm.
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, truyền thông xã hội đã được nhiều nghiên cứu trong nước và quốc tế khẳng định là một công cụ hiệu quả trong tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số và sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử. Trên thế giới, các công trình của Muntinga et al. (2021) và Kaplan & Haenlein (2022) nhấn mạnh vai trò của mạng xã hội trong việc tăng cường nhận thức thương hiệu, tạo dựng niềm tin và tác động đến hành vi tiêu dùng nông sản. Reddy et al. (2023) tại Ấn Độ đã chứng minh hiệu quả của TikTok và YouTube trong việc kết nối nông dân ở vùng sâu với người tiêu dùng thành thị thông qua video kể chuyện và livestream nông sản.
Ở khu vực Đông Nam Á, nghiên cứu của Nguyen & Nguyen (2021) cho thấy, việc sử dụng Facebook và Zalo đã góp phần gia tăng doanh thu trực tuyến cho các hộ nông dân trẻ tại Thái Lan và Việt Nam. Ở trong nước một số nghiên cứu như của Phạm Thị Bích Hường & Nguyễn Thị Nhàn (2021) tại Thái Nguyên chỉ ra rằng Facebook và Zalo là hai kênh phổ biến được nông dân sử dụng để bán chè, gà đồi và các loại rau sạch. Trong khi đó, Lê Quang Hòa (2022) đánh giá cao tác động của TikTok livestream đối với hiệu quả truyền thông sản phẩm OCOP tại miền núi phía Bắc. Bên cạnh đó, Nguyễn Thị Thanh & Trần Văn Tuấn (2023) tại Đại học Cần Thơ đã ứng dụng mô hình TAM để phân tích mối quan hệ giữa mức độ tin tưởng nội dung mạng xã hội và ý định mua sản phẩm hữu cơ. Các nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho thấy tiềm năng to lớn của truyền thông xã hội trong phát triển thị trường tiêu thụ nông phẩm, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cao năng lực số và khả năng xây dựng nội dung truyền thông cho nông dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, hoạt động tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp cũng đứng trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ về phương thức, công cụ và tư duy tiếp cận thị trường. Truyền thống tiêu thụ nông sản chủ yếu thông qua chợ đầu mối, thương lái và hệ thống phân phối vật lý đang bộc lộ nhiều hạn chế như chi phí trung gian cao, thông tin thị trường thiếu minh bạch và khả năng tiếp cận người tiêu dùng còn hạn chế. Trong khi đó, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, mạng xã hội và thương mại điện tử đã mở ra cơ hội mới để người nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp tiếp cận trực tiếp khách hàng, mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, người dân, đặc biệt là nông dân trẻ cũng đang đối mặt với nhiều thách thức như thiếu kỹ năng số, nguồn lực đầu tư hạn chế và khoảng cách số giữa nông thôn, thành thị. Chính vì vậy, việc thích ứng với chuyển đổi số trong tiêu thụ nông sản không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là đòi hỏi cấp thiết để nâng cao giá trị nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn và bảo đảm sinh kế bền vững.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tại bàn được thực hiện nhằm xây dựng cơ sở lý thuyết và tổng quan tài liệu. Quá trình này bao gồm tổng quan tài liệu, phân tích các công trình nghiên cứu trước đây và xác định khoảng trống nghiên cứu. Các nguồn tài liệu bao gồm sách, bài báo khoa học, luận án, báo cáo hội nghị và các tài liệu chuyên ngành liên quan đến năng lực số của nông dân trong tiêu thụ sản phẩm trước bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua quá trình này, nghiên cứu xác định các khái niệm chính, xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu về giáo dục năng lực số cho nông dân trẻ trong tiêu thụ nông phẩm ở khu vực Đông Bắc Việt Nam trước bối cảnh chuyển đổi số.
Nghiên cứu định lượng được tiến hành thông qua họat động khảo sát nông dân trẻ thuộc khu vực Đông Bắc gồm bốn tỉnh: Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng (theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh). Số lượng nông dân trẻ có độ tuổi từ 18 đến dưới 35 tuổi ở khu vực Đông Bắc tính đến ngày 15/6/2025 là 1.202.072 người, áp dụng công thức chọn mẫu của Slovin:

Trong đó:
n là mẫu đi điều tra.
N: Tổng số mẫu (1.202.072 mẫu)
ε: sai số tiêu chuẩn (lấy giá trị xấp xỉ 0,05).
Áp dụng công thức trên tính được n = 399,8 làm tròn thành 400 người.
Thời gian tiến hành khảo sát từ giữa tháng 6 đến hết tháng 7 năm 2025.
Mẫu nghiên cứu được thiết kế theo thang đo Likert 5 mức đánh giá từ mức Tốt (5 điểm), khá (4 điểm), trung bình (3 điểm), yếu (2 điểm), kém (1 điểm).
Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 22.0 để tính điểm trung bình. Kết quả tính khoảng điểm với k = (5-1)/5 = 0,8, Kết quả tính khoảng điểm với k = (5-1)/5 = 0,8, như vậy các tiêu chí nằm trong khoảng từ 1-1,80 xếp mức kém/rất không đồng ý/rất không hiệu quả/rất không thường xuyên/rất không quan trọng, khoảng từ 1,81-2,60 xếp mức yếu/không đồng ý/không hiệu quả/không thường xuyên/không quan trọng; khoảng từ 2,61-3,40 xếp mức trung bình/phân vân/bình thường; khoảng từ 3,41-4,20 xếp mức khá/đồng ý/hiệu quả/thường xuyên/quan trọng và từ khoảng 4,21-5,00 xếp mức tốt/rất đồng ý/rất hiệu quả/rất thường xuyên/rất quan trọng.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Đánh giá về tầm quan trọng về nhận thức sử dụng công cụ phương tiện truyền thông xã hội trong tiêu thụ nông phẩm tại Khu vực Đông Bắc, Việt Nam
Qua hình 1 cho thấy, các nông dân trẻ tại khu vực Đông Bắc Việt Nam đã có nhận thức tương đối tốt về tầm quan trọng của phương tiện truyền thông xã hội trong bối cảnh chuyển đổi số với quá trình tiêu thụ nông phẩm, có 44,5% ý kiến đánh giá là rất quan trọng, 23,25% ý kiến đánh giá là quan trọng, 19,25% ý kiến đánh giá là bình thường. Khi phỏng vấn sâu nông dân trẻ tại tỉnh Lạng Sơn cho biết: “Bản thân tôi đã sử dụng các công cụ mạng xã hội trong tiêu thụ sản phẩm nông sản do gia đình sản xuất nên nhận thấy nó đã giúp rút ngắn khoảng cách giữa người nông dân hoặc hợp tác xã với người tiêu dùng, loại bỏ nhiều tầng trung gian. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh nông sản dễ bị ép giá hoặc phụ thuộc vào thương lái thu mua nông phẩm”. Tuy nhiên vẫn còn có ý kiến không quan trọng (chiếm 8,75%) và ý kiến rất không quan trọng (chiếm 4,25%).

Nguyên nhân được được xác định là do phần lớn nông dân còn thiếu kiến thức về các nền tảng truyền thông xã hội, họ chưa nhận thức được rằng đây không chỉ là công cụ giải trí mà còn là phương tiện bán hàng hiệu quả, nhiều người còn gặp khó khăn trong việc sử dụng smartphone, cài đặt ứng dụng, tạo nội dung hoặc quản lý tương tác với khách hàng. Điều này xuất phát từ sự kết hợp giữa hạn chế về năng lực số, văn hóa truyền thống, thiếu niềm tin và chưa được hỗ trợ đúng mức của các cơ quan, chính quyền địa phương đồng hành các chương trình tập huấn, đào tạo về sử dụng phương tiện truyền thông xã hội trong tiêu thụ nông phẩm. Nhìn chung: Trong bối cảnh chuyển đổi số nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, truyền thông xã hội không chỉ là công cụ quảng bá mà còn là nền tảng chiến lược trong quản trị chuỗi giá trị nông sản. Việc tận dụng hiệu quả truyền thông xã hội giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, gia tăng giá trị thương hiệu và phát triển bền vững trong tiêu thụ nông phẩm.
3.2. Thực trạng về mức độ sử dụng và mức độ hiệu quả các công cụ phương tiện truyền thông xã hội trong tiêu thụ nông phẩm tại Khu vực Đông Bắc, Việt Nam
Khi tìm hiểu về mức độ sử dụng và hiệu quả sử dụng các công cụ phương tiện truyền thông xã hội trong tiêu thụ nông phẩm tại Khu vực Đông Bắc, Việt Nam cho thấy, người nông dân trẻ đã có mức độ sử dụng không thường xuyên (ĐTBC: 2,54 điểm) và mức độ hiệu quả sử dụng là bình thường (ĐTBC: 2,84 điểm).

Đa phần nông dân trẻ đang quan tâm, sử dụng thường xuyên và hiệu quả nhất là nhóm mạng xã hội (MĐSD: 3,05; HQSD: 3,47), với công cụ Facebook là thường xuyên (MĐSD: 4,05; HQSD: 4,25), tiếp đến là kênh zalo với mức thường xuyên (MĐSD: 3,94; HQSD: 4,24), một số nông dân trẻ cũng đã biết khai thác kênh Youtube (MĐSD: 3,29; HQSD: 4,11); tiktok là công cụ mới nổi đang thu hút sự quan tâm người dùng tuy còn hạn chế (MĐSD: 2,43; HQSD: 2,59), công cụ instagram rất ít nông dân trẻ lựa chọn (MĐSD: 1,55; HQSD: 2,14). Những ưu thế của mạng xã hội có thể kể đến như cho phép thông tin lan truyền tức thì đến hàng triệu người dùng mà không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian, tạo điều kiện cho người bán và người mua tương tác hai chiều qua bình luận, tin nhắn, khảo sát… giúp xây dựng quan hệ khách hàng, tăng sự gắn bó và thu thập phản hồi tức thời; chủ thể truyền tải hình ảnh, câu chuyện và giá trị thương hiệu một cách linh hoạt, trực quan (qua ảnh, video, livestream…).
Xếp thứ 2 là website (MĐSD: 2,71; HQSD: 3,01), nhiều nông dân trẻ đã thành lập các Hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp nên phát triển website với giao diện thân thiện là một cách thức tiếp cận thị trường, website là kênh thuộc sở hữu riêng, cho phép đơn vị kinh doanh kiểm soát toàn bộ hình ảnh, nội dung, giao diện và hành trình mua sắm của khách hàng. Khách hàng thường tìm kiếm sản phẩm qua Google,khi website được tối ưu SEO tốt, nó có thể đứng trong top kết quả tìm kiếm, giúp thu hút lượng truy cập tự nhiên mà không cần chi nhiều cho quảng cáo, đây là một trong những kênh mang lại tỷ lệ chuyển đổi cao và bền vững cho người bán.
Xếp thứ 3 là Marketing thông qua công cụ tìm kiếm (SEM) (MĐSD: 1,64; HQSD: 1,63), SEM hiệu quả đòi hỏi người dùng biết cách viết nội dung quảng cáo hấp dẫn, chọn từ khóa phù hợp với hành vi tìm kiếm của khách hàng, và tối ưu trang đích. Tuy nhiên, phần lớn nông dân trẻ chưa được đào tạo bài bản về việc thiết kế website, viết nội dung, hoặc tối ưu tỷ lệ chuyển đổi, dẫn đến hiệu quả thấp dù có ngân sách chạy quảng cáo cùng hỗ trợ. SEM hoạt động theo cơ chế trả tiền cho mỗi lượt nhấp (PPC), do đó yêu cầu ngân sách quảng cáo ổn định. Với nguồn lực còn hạn chế, nhiều nông dân trẻ không đủ ngân sách để duy trì chiến dịch dài hạn hoặc bị mất hiệu quả do cạn ngân sách quá sớm.
Xếp cuối cùng là email marketing (MĐSD: 1,35; HQSD: 1,45) và blog cá nhân (MĐSD: 1,36; HQSD: 1,53) đều thể hiện mức rất không thường xuyên và rất không hiệu quả. Email marketing và blog cá nhân đòi hỏi khả năng sáng tạo nội dung có chiều sâu, hấp dẫn và đúng đối tượng. Tuy nhiên, nhiều nông dân trẻ chưa được đào tạo bài bản về storytelling (kể chuyện), trình bày sản phẩm theo phong cách thương hiệu, hoặc cấu trúc nội dung tối ưu chuyển đổi. Điều này làm giảm hiệu quả truyền tải thông điệp và mức độ quan tâm từ người nhận. Email marketing và blog chỉ hiệu quả khi duy trì nội dung đều đặn, đúng thời điểm (ví dụ: mùa vụ, khuyến mãi, cập nhật sản phẩm). Tuy nhiên, nhiều nông dân trẻ không có kế hoạch nội dung rõ ràng, hoặc bỏ dở giữa chừng do bận rộn sản xuất. Sự thiếu nhất quán này khiến khách hàng không duy trì tương tác hoặc đánh giá thấp tính chuyên nghiệp.
3.3. Thực trạng về tần suất sử dụng các công cụ phương tiện truyền thông xã hội trong tiêu thụ nông phẩm tại Khu vực Đông Bắc, Việt Nam
Mặc dù, mỗi công cụ có ưu thế riêng khi nông dân trẻ lựa chọn làm phương tiện truyền thông xã hội trong tiêu thụ nông phẩm cho mình nhưng bước đầu cho thấy người nông dân trẻ đã có sự tìm kiếm, thanh lọc các công cụ để phù hợp với tri thức bản thân, tính ứng dụng mỗi công cụ, khả năng đào tạo, chi phí, chuyển đổi hành vi mua khách hàng. Nhưng nhìn chung là chưa mạnh mẽ. Nông dân trẻ là người có khả năng tiếp cận khoa học công nghệ tốt nhưng năng lực số của họ có hạn chế nhất định nên đa phần đang sử dụng theo thói quen (vì lượng bạn bè trên môi trường số lớn), chi phí thấp (công cụ chưa thu phí như zalo, facebook,…), tính phổ biến, dễ sử dụng và khả năng liên kết dễ dàng (facebook, zalo, tiktok, website,..). Kết quả đánh giá về tần suất sử dụng các công cụ phương tiện truyền thông xã hội trong tiêu thụ nông phẩm tại Khu vực Đông Bắc, Việt Nam thể hiện ở bảng sau:

Kết quả bảng trên cho thấy tần suất của nông dân trẻ sử dụng khá đa dạng, có nhiều mức độ sử dụng khác nhau. Trong đó mức sử dụng cao nhất (trên 15 lần) mỗi năm là facebook (chiếm 62,50%), zalo (59,25%), youtube (26,75%), tiktok (16,25%). Mức tần suất dao động từ 11-15 lần mỗi năm với: youtube (24,5%), facebook (21,25%), zalo (19,0%), tiktok (17,75%). Mức tần suất dao động từ 6-10 lần mỗi năm với: tiktok (23,75%), youtube (21,75%), facebook (14,0%), zalo (13,25%), website (9,75%). Đa phần các công cụ không được sử dụng hàng năm: email marketing (88,75), marketing qua công cụ tìm kiếm -SEM (95,5%), blog cá nhân (94,25%), instagram (86,5%) và Website (70,75%). Kết quả này cho thấy việc nông dân trẻ sử dụng phương tiện truyền thông xã hội rời rạc, chủ yếu sử dụng theo tính mùa vụ của sản phẩm, bán hàng kinh nghiệm theo thói quen “đến hẹn lại lên” nên chưa phát huy hiệu quả và ưu thế của các phương tiện truyền thông xã hội này. Đa phần, người nông dân trẻ có thị trường vốn đã quen biết từ trước (người quen, khách hàng đã từng mua và mua lặp lại theo mùa), bán nông phẩm theo kiểu “bán tới đâu hết tới đó” nên chưa có định sử dụng phương tiện truyền thông xã hội thường xuyên, liên tục. Một số bộ phận nông dân trẻ còn lo các loại chi phí liên quan nên còn khá e dè trong quá trình lựa chọn, sử dụng công cụ.
3.4. Thực trạng quy mô ngân sách sử dụng các công cụ phương tiện truyền thông xã hội trong tiêu thụ nông phẩm tại Khu vực Đông Bắc, Việt Nam
Kết quả đánh giá ngân sách cho việc sử dụng các công cụ phương tiện truyền thông xã hội trong tiêu thụ nông phẩm mỗi năm tại Khu vực Đông Bắc thể hiện như sau:

Đa phần nông dân trẻ đang tận dụng các công cụ miễn phí (facebook, zalo,…) chiếm 41,25% cho bài viết, tin gửi,…có 33,0% nông dân chấp nhận trả phí dưới 2 triệu đồng (các Hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp trả phí duy trì miền trên website), có 17,25% chấp nhận trả phì tứ 2 đến dưới 5 triệu đồng (các Hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp trả phí duy trì miền trên website nhưng thay đổi về tính năng tăng thêm, một số nông dân sử dụng nhiều công cụ phối hợp như vừa email marketing phối hợp website); có 6,5% chấp nhận trả phí từ trên 5 triệu đến dưới 10 triệu đồng (các Hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp trả phí duy trì miền trên website nhưng thay đổi về tính năng tăng thêm, cập nhật và bảo mật công nghệ; một số nông dân sử dụng nhiều công cụ phối hợp như vừa email marketing phối hợp website; hoặc liên kết website với sàn TMĐT,…) và chỉ có 2% chấp nhận trả phí từ trên 10 triệu đến dưới 20 triệu đồng (các Hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp trả phí duy trì miền trên website nhưng thay đổi về tính năng tăng thêm, cập nhật và bảo mật công nghệ, tích hợp AI/chatbot/phân tích dữ liệu; liên kết website với sàn TMĐT; website tăng nhu cầu về trải nghiệm người dùng (UX/UI) và giao diện đa nền tảng; chi phí cho SEM để lên TOP…). Không có nông dân nào chi trên 20 triệu đồng cho công tác đầu tư phương tiện truyền thông xã hội cho tiêu thụ nông phẩm. Những lý do chính được xác định mức chi phí cho phương tiện truyền thông xã hội trong tiêu thụ nông phẩm bị hạnh chế là do: thiếu niềm tin vào hiệu quả đầu tư; thiếu hiểu biết và kỹ năng về truyền thông xã hội; thu nhập thấp và áp lực tài chính cao; thiếu kế hoạch marketing tổng thể; tâm lý ngại công khai thông tin cá nhân và sản phẩm; thiếu sự hỗ trợ kỹ thuật và mô hình mẫu từ địa phương.
3.5. Thực trạng sử dụng các phương pháp xác định ngân sách cho các phương tiện truyền thông xã hội trong tiêu thụ nông phẩm tại Khu vực Đông Bắc, Việt Nam
Kết quả khảo sát ở hình trên cho thấy, việc sử dụng các phương pháp để xác định ngân sách cho công cụ phương tiện truyền thông xã hội trong tiêu thụ nông phẩm thực hiện khá đa dạng.

Hầu hết nông dân trẻ không sử dụng các phương pháp xác định ngân sách cho hoạt động truyền thông tiêu thụ nông phẩm (chiếm 73,75%), những người nông dân trẻ chủ yếu dựa trên khả năng tài chính, vốn hiểu biết, mức độ tiện dụng của công cụ để “tự cân đối” (chiếm 17,25%), một số nông dân trẻ đan tham gia hoạt động theo loại hình Hợp tác xã hoặc doanh nghiệp nông nghiệp đã sử dụng phương pháp “dựa trên mục tiêu và nhiệm vụ kinh doanh” (chiếm 4,25%) và phương pháp “dựa trên đối thủ cạnh tranh” (chiếm 2,75%), còn lại phương pháp “dựa trên doanh thu dự kiến” (chiếm 2,0%). Nông dân trẻ dù có năng lực công nghệ tốt hơn các thế hệ trước nhưng phần lớn chưa được đào tạo bài bản về marketing. Họ thường thiếu hiểu biết về quy trình xây dựng kế hoạch truyền thông, trong đó bước xác định ngân sách là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo hiệu quả đầu tư và sử dụng nguồn lực hợp lý. Việc thiếu kinh nghiệm và kỹ năng trong xác định ngân sách truyền thông là một rào cản lớn khiến nông dân trẻ chưa thể triển khai marketing một cách bài bản. Điều này dẫn đến hiệu quả thấp, lãng phí chi phí, hoặc bỏ lỡ cơ hội cạnh tranh trên thị trường số. Do vậy trong thời gian tới đây, họ cần có các chương trình đào tạo thực hành, lồng ghép kỹ năng tài chính truyền thông để giúp nhóm đối tượng này nâng cao năng lực lập kế hoạch và đầu tư truyền thông hiệu quả.
5. Kết luận
Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia và hiện đại hóa nông nghiệp, việc nông dân trẻ sử dụng phương tiện truyền thông xã hội để tiêu thụ nông phẩm mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực về kinh tế, xã hội và phát triển bền vững1. Mặt khác, truyền thông xã hội đóng vai trò như một “trường học số” để nông dân trẻ học hỏi, giao lưu và cập nhật xu hướng thị trường. Thông qua việc tương tác với khách hàng, phân tích dữ liệu tương tác, nông dân có thể tự điều chỉnh chiến lược sản xuất và truyền thông cho phù hợp với thị hiếu. Đây là bước tiến quan trọng trong việc nâng cao năng lực kinh doanh và tư duy thị trường cho thế hệ nông dân mới. Cuối cùng, việc nông dân trẻ tích cực sử dụng mạng xã hội để tiêu thụ sản phẩm còn góp phần lan tỏa hình ảnh nông nghiệp hiện đại, xanh – sạch – minh bạch, đóng vai trò cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế số. Đây là nền tảng để phát triển mô hình nông nghiệp thông minh và hệ sinh thái tiêu thụ nông sản bền vững trong tương lai.
Chú thích:
1. Bài viết được tài trợ bởi Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh với đề tài “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng phương tiện truyền thông xã hội của nông dân trẻ trong tiêu thụ nông phẩm tại khu vực Đông Bắc, Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số”, mã số: ĐH2025-TN08-03.
Tài liệu tham khảo:
1. Pham, T. B. H., & Nguyen, T. N. (2021). Application of social media in agricultural product marketing in Thai Nguyen Province: A case study of young farmers. Journal of Agricultural Science and Technology, 59(4), 112–120.
2. Kaplan, A. M., & Haenlein, M. (2022). Social media: Back to the roots and back to the future. Journal of Systems and Information Technology, 24(1), 2–10. https://doi.org/10.1108/JSIT-09-2021-0167
3. National Assembly. (2025). Resolution No. 202/2025/QH15 dated June 12, 2025 on the rearrangement of provincial-level administrative units. Office of the National Assembly.
4. Nguyen, T. H., & Nguyen, M. T. (2021). Social media adoption and farm product marketing: A comparative study of smallholders in Vietnam and Thailand. Asian Journal of Agriculture and Development, 18(2), 45–60. https://doi.org/10.22004/ag.econ.310462
5. Nguyen, T. T., & Tran, V. T. (2023). Applying the Technology Acceptance Model (TAM) to evaluate consumer intention to purchase organic agricultural products on social media. Can Tho University Journal of Science, 59(1), 73–84.
6. Le, Q. H. (2022). Effectiveness of TikTok livestreaming in promoting OCOP products in Northern mountainous regions of Vietnam. Journal of Agricultural Economics and Management Research, 3(12), 45–54.
7. Muntinga, D. G., Moorman, M., & Smit, E. G. (2021). Introducing COBRAs: Exploring motivations for brand-related social media use. International Journal of Advertising, 40(3), 393–420. https://doi.org/10.1080/02650487.2020.1867375
8. Reddy, K. R., Singh, S. K., & Rao, V. S. (2023). The role of digital storytelling and TikTok in agricultural marketing among rural youth in India. Journal of Rural Development and Innovation, 9(1), 55–70.



