ThS. Đỗ Thị Trang
Trường Đại học Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp
(Quanlynhanuoc.vn) – Nâng cao chất lượng học tập suốt đời của giảng viên đại học là nội dung, biện pháp quan trọng để đột phá phát triển giáo dục, đào tạo. Bài viết làm rõ vị trí, vai trò học tập suốt đời của giảng viên đại học, thực trạng chất lượng học tập suốt đời, từ đó, đề xuất một số nội dung, biện pháp nâng cao chất lượng học tập suốt đời của giảng viên đại học theo tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Từ khóa: Học tập suốt đời, giảng viên đại học, Nghị quyết số 71-NQ/TW.
1. Đặt vấn đề
Khoa học – công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thịnh vượng hiện nay. Để nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục và đào tạo trong thời kỳ mới, ngày 22/8/2025 Bộ Chính trị (khoá XIII) đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết đã đánh giá ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân của nền giáo dục – đào tạo; xác định những biến đổi của thế giới và yêu cầu, nhiệm vụ đất nước đặt ra; xác định quan điểm, mục tiêu phát triển giáo dục – đào tạo năm 2030, định hướng đến năm 2030; từ đó, xác định nhiệm vụ, giải pháp: xây dựng hệ thống giáo dục mở, liên thông, thúc đẩy học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập1.
2. Học tập suốt đời – một quy luật sống, làm giàu trí tuệ, hoàn thiện nhân cách và định vị bản thân trong xã hội hiện đại
Tổng Bí Tô Lâm đã chỉ rõ: “học tập suốt đời trở thành một quy luật sống; không chỉ giúp mỗi cá nhân nhận biết, thích nghi, không tụt hậu trước sự biến đổi từng ngày của thế giới hiện tại, làm giàu trí tuệ, hoàn thiện nhân cách, vượt qua khó khăn, thử thách để ngày càng tiến bộ và định vị bản thân trong xã hội hiện đại”2. Quan điểm, tư tưởng của Tổng Bí thư cho thấy ba vấn đề cơ bản:
Một là, khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của học tập suốt đời. góp phần nâng cao trình độ hiểu biết một cách toàn diện các vấn đề xã hội, từ đó nâng cao vị thế, uy tín của cá nhân trong môi trường sống và làm việc.
Hai là, học tập suốt đời để mỗi người thích nghi với sự vận động, biến đổi, phát triển của xã hội, ứng biến nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các sự vật, hiện tượng của xã hội. Thông qua học tập suốt đời mà phẩm chất, nhân cách con người được hoàn thiện, phát triển.
Ba là, học tập suốt đời để mỗi người làm giàu thêm tri thức, có đủ bản lĩnh, nghị lực, tỉnh táo trong đánh giá, nhìn nhận, xem xét các sự vật, hiện tượng một cách khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, vững tin vào tương lai, vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tấm gương mẫu mực về học tập suốt đời, việc học tập suốt đời không bao giờ có độ dừng mà chỉ có học, học nữa, học mãi, học ở mọi lúc, mọi nơi, mọi điều kiện, hoàn cảnh. Những lúc rảnh rỗi Người đều tranh thủ thời gian nghiên cứu, tìm hiểu tài liệu để bổ sung vốn sống, kinh nghiệm, hiểu biết các lĩnh vực, từ đó, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân tốt hơn.
Người chỉ rõ: “xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học tập thì lạc hậu, mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”3. Và Người còn nhấn mạnh: “Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học. Việc lớn, việc nhỏ tôi phải tham gia. Công việc cứ tiến mãi. Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt lại mình phía sau”4.
Những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy, tầm quan trọng của học tập suốt đời không bao giờ thừa, là yêu cầu, nhiệm vụ bắt buộc đối với mỗi người, nhất là đối với giảng viên đại học càng đặt ra cấp bách hơn bao giờ hết, là quy luật của cuộc sống, là điều kiện, căn cứ để phân biệt người này với người khác. Một người có tri thức, trình độ, hiểu biết các vấn đề xã hội sẽ khác với người không có tri thức, hiểu biết các vấn đề xã hội ở nhiều góc độ, khía cạnh, đặc biệt là trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học.
Học tập suốt đời đối với giảng viên đại học là chìa khóa của thành công, tạo nên thương hiệu, uy tín không chỉ trong thời gian đứng lớp mà khi nghỉ công tác, năng lực, phẩm chất vẫn còn với thời gian. Sự hiểu biết sâu rộng kiến thức chuyên ngành và liên ngành giúp giảng viên đại học tự tin đứng trên bục giảng, hình thành, phát triển các phương pháp dạy học tích cực; kích thích tính say mê, sáng tạo cho người học; không đem lại cảm giác nhàm chán, tạo sự hưng phấn trong suốt buổi học.
Sự thành thạo về kỹ năng, kỹ xảo của phương pháp, tác phong sư phạm và giàu có về tri thức chính là bảo bối quan trọng để giảng viên đại học làm chủ lớp học, thăng hoa trong mỗi bài giảng. Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “thầy cô là linh hồn của giáo dục, là nhân tố quyết định sự thành bại của đổi mới. Thầy cô không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn gieo mầm khát vọng, hun đúc nhân cách, thắp sáng niềm tin cho học trò. Bởi vậy, bản thân các thầy cô cũng phải không ngừng học tập, sáng tạo, nêu gương mẫu mực”5.
Trong giai đoạn hiện nay, khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển như vũ bão; những tác động từ bên ngoài, như: mở cửa, hội nhập quốc tế; âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động; mặt trái của nền kinh tế thị trường; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong một phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; giá cả các mặt hàng leo thang… đặt ra cho giảng viên đại học những yêu cầu, nhiệm vụ khắt khe hơn trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của nghề giáo.
Việc học tập suốt đời là nội dung, biện pháp quan trọng để giảng viên đại học không bị cuốn vào vòng xoáy của xã hội; biết nhìn nhận, đánh giá đúng đâu là những lợi ích trước mắt, đâu là những lợi ích lâu dài cần phải được giữ gìn và phát huy; từ đó, tránh xa cám dỗ với những mặt trái của xã hội. Học tập suốt đời là tấm khiên để bảo vệ giảng viên đại học ở mọi lúc, mọi nơi, trở thành những chiến sĩ tiên phong trên các mặt trận, nhất là trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng; bồi dưỡng lý tưởng sống cho sinh viên đại học, không ngại khó, ngại khổ, ngại học, ngại rèn; sống có hoài bão, ước mơ, sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất kỳ việc gì khi Tổ quốc cần.
3. Thực tiễn học tập suốt đời của giảng viên đại học thời gian vừa qua
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, học tập suốt đời đã trở thành phong trào có sức lan toả sâu rộng trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động, Nhân dân đồng tình, hưởng ứng và đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc; khơi dậy lòng yêu nước, ý thức tự tôn, tự hào dân tộc; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận về đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, như: Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhiệm vụ đến năm 2000; Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời”6.
Cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng, ngày 9/11/2023 Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1315/QĐ-TTg triển khai phong trào “Cả nước thi đua xây dựng xã hội học tập, đẩy mạnh học tập suốt đời giai đoạn 2023 – 2030”. Các địa phương đẩy mạnh thực hiện phong trào học tập suốt đời, nhiều mô hình, cách thức, phương pháp thực hiện phong trào học tập suốt đời có ý nghĩa sâu rộng được tổ chức, như: mỗi gia đình, dòng họ thành lập phong trào khuyến học, hằng năm tổ chức tôn vinh, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân tiêu biểu có thành tích học tập tốt; xây dựng quỹ khuyến học, nhân tài ở các địa phương.
Các trường đại học thành lập quỹ học bổng nhằm hỗ trợ, động viên, giúp đỡ sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, nghèo vượt khó có thành tích cao trong học tập, rèn luyện. Từng giảng viên đại học đã xác định tốt động cơ, thái độ, trách nhiệm trong tự bồi dưỡng, rèn luyện năng lực sư phạm, phương pháp, tác phong giảng dạy đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Các trường học cụ thể hóa phong trào thi đua học tập suốt đời của Chính phủ thành những chỉ tiêu, nội dung phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của mỗi trường. Phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt”, “ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong giảng dạy” được đẩy mạnh; giảng viên đã tích cực, chủ động khắc phục khó khăn, nâng cao chất lượng học tập suốt đời.
Bên cạnh kết quả đạt được, chất lượng học tập suốt đời của giảng viên đại học còn một số hạn chế, như: nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng, giảng viên chưa sâu sắc trong việc học tập suốt đời. Nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục, tổ chức thực hiện học tập suốt đời chưa phong phú, đa dạng, trở thành nhu cầu, động cơ thúc đẩy giảng viên nỗ lực vươn lên trong học tập suốt đời.
Một số giảng viên chưa thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực, phương pháp sư phạm trước sự phát triển như vũ bão của khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Học tập suốt đời chưa trở thành phong trào sâu rộng, bền vững trong các trường đại học. Nghị quyết số 71-NQ/TW đã chỉ rõ: “giáo dục và đào tạo vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế, chưa thực sự trở thành động lực then chốt cho sự phát triển bứt phá của đất nước”7.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; phấn đấu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao… Để đạt được mục tiêu đó, một trong yếu tố quan trọng, quyết định đó là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh thực hiện phong trào học tập suốt đời trong toàn dân, đặc biệt đối với giảng viên đại học. Nghị quyết số 71-NQ/TW xác định: “Đất nước ta đang đứng trước vận hội lịch sử để phát triển bứt phá… xây dựng nguồn nhân lực đặt ra rất quan trọng và cấp bách, đòi hỏi phải đột phá phát triển giáo dục và đào tạo góp phần xây dựng thế hệ con người Việt Nam mới”8.
4. Một số biện pháp nâng cao chất lượng học tập suốt đời của giảng viên đại học theo tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của giảng viên đại học tầm quan trọng về học tập suốt đời.
Nghị quyết số 71-NQ/TW chỉ rõ: “Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức và vai trò, trách nhiệm của tất cả các ban, bộ, ngành trung ương, các tổ chức chính trị – xã hội, các cấp ủy, chính quyền địa phương, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp và toàn dân đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo”9. Theo đó, giảng viên đại học quán triệt và nhận thức sâu sắc tầm quan trọng việc học tập suốt đời không chỉ phục vụ nhiệm vụ giảng dạy mà còn đáp ứng nhiều vấn đề, nội dụng trong công việc, cuộc sống; song cấp bách, trước mắt là đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giảng dạy, xây dựng uy tín, thương hiệu cho môi trường công tác.
Cấp ủy, lãnh đạo cần đa dạng hóa các hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục về học tập suốt đời; xây dựng bầu không khí dân chủ, cởi mở, tạo động lực cho giảng viên vươn lên khẳng định mình trong môi trường giáo dục. Đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” trong giảng viên, xây dựng gương điển hình tiên tiến về học tập suốt đời, nhân rộng và biểu dương, tôn vinh những giảng viên dạy giỏi, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp trồng người của nhà trường.
Đề cao vai trò, trách nhiệm của mỗi giảng viên trong tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực sư phạm; luôn đổi mới về phương pháp giảng dạy, cập nhật, bổ sung những thông tin, nội dung mới có liên quan đến chủ đề bài giảng; cùng với việc dạy chữ, dạy nghề, cần dạy đạo làm người, kỹ năng mềm cho sinh viên. Nếu không học tập suốt đời, không thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, không nhận thức sâu sắc, toàn diện trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, khó có thể nâng cao được năng lực, trình độ kiến thức.
Giảng viên đại học cần quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo việc học tập suốt đời vào thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình; thường xuyên điều chỉnh, bổ sung kế hoạch, biện pháp học tập suốt đời phù hợp với thực tiễn công việc; không dập khuân máy móc, cứng nhắc trong thực hiện học tập suốt đời. Mỗi giảng viên có những mối quan hệ khác nhau trong môi trường công tác, vì vậy, kế hoạch học tập suốt đời cần linh hoạt, ứng biến tốt nhất với tình hình vận động, phát triển của xã hội, của môi trường đại học.
Hai là, xây dựng môi trường giáo dục và đào tạo trong sạch, lành mạnh, giản dị, có giá trị nhân văn sâu sắc.
Nghị quyết số 71-NQ/TW đã xác định những nhiệm vụ, giải pháp tổng thể để tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giảng viên phát triển về mọi mặt, như: thể chế, cơ chế, chính sách về tiền lương, nhà ở xã hội… Cụ thể hóa vào xây dựng môi trường giáo dục và đào tạo ở mỗi trường đại học cần có những chính sách phù hợp, linh hoạt, sáng tạo nhằm tạo môi trường tốt nhất để giảng viên cống hiến tài năng, trí tuệ trong quá trình làm việc.
Thực hiện chuẩn hóa giảng viên đại học có trình độ sau đại học; giảng viên đứng lớp có thâm niên công tác, có trình độ ngoại ngữ; bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị máy móc hiện đại cho giảng viên giảng dạy, nghiên cứu khoa học; tạo điều kiện cho giảng viên có nhu cầu, động cơ đi đào tạo sau đại học để nâng cao trình độ về mọi mặt; sắp xếp, bố trí giảng viên có trình độ, năng lực đúng chuyên môn; khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong giảng dạy của giảng viên. Những kiến nghị, tham mưu, đề xuất của giảng viên về nhiệm vụ giáo dục, đào tạo cần được ghi nhận, giải quyết hợp tình, hợp lý. Có những cơ chế, chính sách động viên, khích lệ giảng viên thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận công nghệ AI. Từ đó, tiếp tục điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về nâng cao chất lượng học tập suốt đời cho giảng viên đại học hiện nay.
Đặt ra yêu cầu cao cho giảng viên đại học trong thực hành giảng dạy, tham gia nghiên cứu khoa học, thực hiện các chương trình, dự án trọng điểm của nhà trường. Xây dựng những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của giảng viên đại học, thông qua thi kiểm tra, kết thúc môn học của sinh viên; thông qua việc tham gia các hội thi giảng viên dạy giỏi, các bài báo đăng trên các tạp chí uy tín; thông qua dự giờ kiểm tra, đánh giá chất lượng bài giảng của giảng viên. Xây dựng phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” đối với giảng viên, tạo thành những đợt thi đua sôi nổi, khuyến khích giảng viên tự học tập, tự bồi dưỡng, nâng cao phương pháp học tập suốt đời.
Ba là, từng giảng viên đại học không ngừng tự đổi mới hình thức, phương pháp giảng dạy.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra: “mỗi cán bộ, đảng viên luôn ý thức rõ học tập suốt đời là nhiệm vụ cách mạng với thái độ nghiêm túc và ý thức tự giác cao”10. Không có cách thức, phương pháp nào tốt hơn bằng việc từng giảng viên đại học tự đổi mới hình thức, phương pháp tự bồi dưỡng, tự nghiên cứu các nội dung, vấn đề thuộc về chuyên ngành và liên ngành. Đó là con đường tốt nhất để giảng viên đại học hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
Tự đổi mới hình thức, phương pháp giảng dạy chính là hình thức, biện pháp để giảng viên tự rèn luyện mình, nâng cao chất lượng học tập suốt đời cho bản thân, phục vụ tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ giảng dạy. Hiện nay, khoa học – công nghệ, chuyển đổi số phát triển mạnh mẽ, tăng lên theo cấp số nhân, từng giảng viên đại học là chủ thể năng động, sáng tạo trong học tập suốt đời; không ngại khó, ngại khổ, ngại học; chủ động khắc phục những ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường chuyên tâm vào nhiệm vụ giảng dạy. Trên cơ sở kế hoạch, nhiệm vụ của nhà trường, giảng viên đại học cần điều chỉnh nhiệm vụ, tranh thủ thời gian, đầu tư thời gian vào thực hiện những nội dung còn yếu, còn thiếu, nắm chưa vững, chưa chắc để đáp ứng tốt nhất nhiệm vụ giáo dục và đào tạo hiện nay.
Tự đổi mới về hình thức, phương pháp học tập suốt đời của giảng viên đại học được tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt, không ngừng, không nghỉ; gắn việc học tập suốt đời với thực hiện nhiệm vụ của giảng viên, nghiên cứu khoa học, thực hiện nhiệm vụ của nhà trường. Đồng thời, gắn với đấu tranh phê phán, phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng; định hướng chính trị tư tưởng, xây dựng bản lĩnh vững vàng, niềm tin cho người học vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
5. Kết luận
Dân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu học, đã được lịch sử dựng nước và giữ nước kiểm nghiệm, chứng minh và phát huy bản chất tốt đẹp trong việc giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu nước, làm thất bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong dòng chảy của truyền thống hiếu học dân tộc, tinh thần học tập suốt đời đã trở thành giá trị văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam và có sức lan toả sâu rộng, bền vững hiện nay.
Giảng viên đại học là người kế thừa, tiếp bước truyền thống đó của dân tộc để truyền năng lượng, nhuệ khí mới, tạo thành các phong trào thi đua sôi nổi, thổi lên ngọn lửa đam mê, nhiệt huyết về tinh thần học tập suốt đời cho sinh viên và trong toàn xã hội. Những giải pháp về nhận thức, hành động cụ thể, thiết thực để nâng cao chất lượng học tập suốt đời của giảng viên đại học sẽ tạo sự chuyển biến mới về chất lượng dạy và học ở bậc giáo dục đại học hiện nay; góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về các điểm nghẽn; thổi một luồng gió mới cho sự nghiệp kiến tạo một nền giáo dục, đào tạo hoà nhập, cùng tiến bước với nền giáo dục của quốc tế trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng, sánh vai cường quốc năm châu thế giới.
Chú thích:
1, 7, 8, 9. Bộ Chính trị (2015). Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
2, 10. Tô Lâm (2025). Học tập suốt đời. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/03/03/hoc-tap-suot-doi.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 333.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 273.
5. Tổng Bí thư Tô Lâm: Xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại – nhân văn – hội nhập, góp phần làm rạng danh dân tộc. https://daibieunhandan.vn/tong-bi-thu-to-lam-xay-dung-mot-nen-giao-duc-viet-nam-hien-dai-nhan-van-hoi-nhap-gop-phan-lam-rang-danh-dan-toc-10385758.html.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 137.