TS. Lê Quốc Bang
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong kỷ nguyên mới, Việt Nam đang trở thành một quốc gia phát triển ở khu vực Đông Nam Á và thế giới, từ một nước có thu nhập thấp trở thành nước thu nhập cao trong khu vực và thứ 32 trên thế giới cùng với đó là nền quốc phòng và an ninh ổn định vững chắc. Để giữ vững đất nước hùng cường, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải lãnh đạo và tổ chức quản lý nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, xây dựng một nền quốc phòng vững mạnh, một nền an ninh vững chắc.
Từ khóa: Bảo vệ, xây dựng, nền quốc phòng vững mạnh, nền an ninh vững chắc.
1. Đặt vấn đề
Quốc phòng và an ninh luôn là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Nhà nước luôn chăm lo xây dựng, tổ chức, huy động và sử dụng tiềm lực quốc phòng và an ninh để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, yêu cầu quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh càng trở nên cấp thiết. Trong kỷ nguyên mới, quốc phòng và an ninh đứng trước cả thời cơ và thách thức. Một mặt, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục xu thế chung, là tư tưởng chủ đạo; mặt khác, các yếu tố tác động không nhỏ, như: xung đột cục bộ, cạnh tranh chiến lược, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống (khủng bố, an ninh mạng, dịch bệnh, biến đổi khí hậu…) ngày càng phức tạp. Do đó, việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh trong bối cảnh của kỷ nguyên mới là nhiệm vụ quan trọng mang tầm chiến lược, gắn liền với sự tồn vong của chế độ và tương lai phát triển bền vững của đất nước.
2. Cơ sở lý luận và pháp lý của quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nhà nước là công cụ của giai cấp cầm quyền, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững chế độ chính trị và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Lênin chỉ rõ: “Sự vững bền của nước cộng hòa trong chiến đấu chống đế quốc, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Nga và trên toàn thế giới đều tùy thuộc vào sự tăng cường quân đội”1.
Xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa phải dựa trên sức mạnh của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về quản lý nhà nước với lĩnh vực quốc phòng, an ninh là sự kết tinh giữa truyền thống dân tộc, chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Việt Nam, vận dụng tư tưởng của người chúng ta xây dựng nền quốc phòng, an ninh mang tính toàn dân, hiện đại, vững mạnh trong kỷ nguyên mới.
Luật Quốc phòng Việt Nam năm 2018, chỉ rõ: “Là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt”2. An ninh: “Là trạng thái ổn định, an toàn không có dấu hiệu nguy hiểm, đe dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của các nhân, của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của toan xã hội”3. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhân dân ta có hai lực lượng. Một là quân đội, để đánh giặc ngoại xâm, để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn hòa bình. Một lực lượng nữa là công an, để chống kẻ địch trong nước, chống bọn phá hoại”4.
Quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh là hoạt động của Nhà nước bằng quyền lực của Nhà nước, do các cơ quan nhà nước thực hiện trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, nhằm xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Đây là một trong những chức năng cơ bản, thể hiện bản chất của Nhà nước – Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Điều 64 Hiến pháp năm 2013, nêu rõ: “Bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân”, khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý, xây dựng lực lượng vũ trang và thế trận quốc phòng và an ninh. Điều 65 nhấn mạnh: “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
Cùng với đó, Luật Quốc phòng năm 2018 quy định về tổ chức, hoạt động quốc phòng; nguyên tắc quản lý nhà nước về quốc phòng; Luật Công an nhân dân năm 2018, Luật An ninh quốc gia năm 2004 xác định nội dung quản lý an ninh quốc gia, bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền con người, quyền công dân; Luật An ninh mạng năm 2018 quy định những nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Luật Dân quân tự vệ năm 2019 và Luật Lực lượng dự bị động viên 2019; Luật Biên phòng năm 2020, đã tạo hành lang pháp lý cho quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới (Nghị quyết 28- NQ/TW, 2013); Chiến lược quốc phòng Việt Nam, Chiến lược an ninh quốc gia (2018). Luật, Chiến lược ngày càng đồng bộ nhằm gắn kết phát triển kinh tế- xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh; kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với đối ngoại.
Nguyên tắc cơ bản về quản lý quốc phòng và an ninh. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh. Nhà nước thống nhất quản lý bằng pháp luật, chính sách, kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện. Nhân dân làm chủ, toàn dân tham gia sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
3. Thực trạng quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh hiện nay
Một là, hệ thống pháp luật và chiến lược về quốc phòng, an ninh ngày càng hoàn thiện.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước ngày càng tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng, quản lý thống nhất của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân vững chắc. Lực lượng vũ trang được xây dựng, gồm: Quân đội nhân dân, Công an nhân dân ngày càng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp. Nhiều chương trình phát triển kinh tế – xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, kết hợp hạ tầng cơ bản lưỡng dụng. Mô hình doanh nghiệp quốc phòng, an ninh gắn sản xuất với nghiên cứu – chế tạo trang bị, vũ khí mới, nhất là công nghệ tàu biển, phục vụ tốt cho các lực lượng tác chiến trên biển và ngư dân. Hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh được mở rộng, tham gia hiệp hội các nước ASEAN, tham gia tích cực đội gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc. Tích cực hợp tác quốc tế về chống khủng bố, an ninh mạng, phòng chống tội phạm xuyên quốc gia.
Hai là, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Quốc phòng và an ninh tạo ra lá chắn chống lại các nguy cơ gây rối, khủng bố, bạo loạn, tội phạm trong và ngoài nước. Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là tạo ra môi trường ổn định cho người dân yên tâm học tập, lao động sản xuất, kinh doanh, sinh sống. Để phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội phải xây dựng được môi trường hòa bình, bảo đảm an ninh là điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng hợp tác quốc tế. Phát triển kinh tế – xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh nhằm nâng cao tiềm lực đất nước. Góp phần nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Một nền quốc phòng vững mạnh và nền an ninh vững chắc là cơ sở để đất nước vững mạnh, hùng cường, giữ trọng trách của Việt Nam trong khu vực và thế giới, là điều kiện để mở rộng quan hệ đối ngoại, tham gia các cơ chế hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, gìn giữ hòa bình.
Xây dựng niềm tin vào khối đại đoàn kết toàn dân. Quốc phòng và an ninh gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Góp phần nuôi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm của công dân.
Tuy nhiên, vẫn còn có hạn chế, bất cập, như: một số cơ chế, chính sách chậm được điều chỉnh phù hợp với tình hình mới. Công nghiệp quốc phòng, an ninh còn hạn chế, chưa đáp được yêu cầu hiện đại hóa cho các lực lượng vũ trang. Năng lực an ninh phi truyền thống, an ninh mạng, an ninh kinh tế, an ninh môi trường còn bất cập. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân nhận thức chưa đầy đủ, dẫn đến có lúc sơ hở trong phòng ngừa đấu tranh với âm mưu “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
4. Những yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới
Trong kỷ nguyên mới, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh được Đảng, Nhà nước xác định là: “trọng yếu, thường xuyên”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia – dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”5.
Thời kỳ mới, kỷ nguyên chuyển đổi số và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra đối với quốc phòng và an ninh nhằm đáp ứng với điều kiện của chiến tranh không gian mạng, chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh thông tin… An ninh phi truyền thống đang diễn biến ngày càng phức tạp buộc chúng ta phải ứng phó kịp thời với biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng.
Bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia, biển, đảo. Nhanh chóng, phát hiện, ngăn chặn và giải quyết kịp thời với các hành động xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình, nhưng kiên quyết, kiên trì xử lý với các hành động vi phạm chủ quyền biển, đảo, biên giới.
Hội nhập quốc tế sâu rộng. Tăng cường hợp tác quốc tế, giao lưu mở rộng, là bạn là đối tác tin cậy, có quốc gia chúng ta vừa hợp tác vừa đấu tranh, tạo cơ sở để giữ vững hòa bình, ổn định, tự chủ, cùng phát triển. Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc. Tuyên truyền, nâng cao ý thức, trách nhiệm của toàn dân đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh.
5. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh trong kỷ nguyên mới
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
Quán triệt sâu sắc quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng lãnh đạo đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt là nguyên tắc cơ bản được quy định trong điều lệ Đảng và các văn kiện của Đảng nhiều nhiệm kỳ. Điều lệ Đảng quy định: “Sự lãnh đạo của Đảng được tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư”6. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng trong Quân đội, Công an.
Không ngừng đối mới phương thức lãnh đạo, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước vừa kế thừa, vừa bổ sung đổi mới đáp ứng yêu cầu sự phát triển của đất nước. Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, đây là hai nhiệm vụ có mối quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau, cùng nhau phát triển.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược, cơ chế, chính sách.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung các luật, nghị định về quốc phòng và an ninh cho phù hợp với kỷ nguyên mới, sát với tình hình biến đổi của thế giới, hài hòa lợi ích quốc gia, dân tộc.
Ban hành các văn bản pháp lý, về an ninh phi truyền thống, an ninh mạng, an ninh kinh tế số, an ninh năng lượng, an ninh môi trường, an ninh con người. Kịp thời xây dựng các nghị định, chỉ thị, hướng dẫn đối với chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Chính phủ, Quốc hội, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và giữa các cơ quan, ban, ngành, địa phương trên nền tảng chủ động – đồng bộ – hiện đại – toàn dân, nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc, định hướng chiến lược, cơ chế phối hợp hiệu quả và có chính sách phù hợp để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh một cách nhanh chóng, kịp thời. Nâng cao hiệu quả chính sách hậu phương quân đội, công an, chính sách đãi ngộ nhân lực chất lượng cao trong quốc phòng, an ninh.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên trong quân đội.
Thực hiện Nghị quyết 51 của Đảng ủy quân sự Trung ương, vai trò lãnh đạo của cấp ủy, hiệu lực người chỉ huy được tăng cường; vị thế, chất lượng của hệ thống cán bộ chính trị đã phát huy được trí tuệ, sức mạnh đoàn kết, tạo thuận lợi để người chỉ huy có điều kiện chuyên tâm, tập trung thực hiện chức trách, nhiệm vụ, ra các quyết định trong chỉ huy, điều hành đơn vị chính xác, kịp thời, có hiệu lực hơn. Các nghị quyết của cấp ủy, chi bộ được người chỉ huy cụ thể hóa thành quyết tâm, kế hoạch, mệnh lệnh và tập trung chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị.
Đồng thời, giải quyết hài hòa các mối quan hệ, nhất là mối quan hệ công tác với cấp ủy, ban thường vụ, chỉ huy trưởng và chính ủy, chính trị viên luôn tạo được sự đoàn kết, thống nhất trong cấp uỷ, cơ quan, đơn vị; việc trao đổi, bàn bạc, thống nhất giữa người chỉ huy với chính ủy, chính trị viên giữ vững tính nguyên tắc trên cơ sở đoàn kết, tôn trọng, cùng chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Những kết quả trên trực tiếp góp phần hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội; xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tạo nền tảng để toàn quân hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cán bộ chủ chốt ở địa phương. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, tham mưu chiến lược có trình độ cao, khả năng dự báo tốt, am hiểu cả chính trị – quân sự – pháp luật – công nghệ.
Thứ tư, hiện đại hóa các lực lượng vũ trang và phát triển công nghiệp quốc phòng, công an.
Trong kỷ nguyên mới, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư – thời đại của khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ, tác động đến lực lương vũ trang về tổ chức, biên chế, vũ khí trang bị, nên phải được xây dựng chính quy, hiện đại. Trong những năm tới, chú trọng xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh bảo đảm yêu cầu tác chiến mới, quan tâm hơn nữa các lực lượng tác chiến điện tử; tác chiến không gian mạng; Phòng không – Không quân; Hải quân. Xây dựng Công an nhân dân: Chính quy, hiện đại, cơ động nhanh, giải quyết kịp thời các tình huống “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” khi xảy ra; nâng cao khả năng trong phòng, chống tội phạm công nghệ cao.
Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh trở thành một ngành kinh tế – kỹ thuật mũi nhọn. Cần đầu tư mạnh mẽ, đồng bộ, kết hợp quốc phòng – kinh tế – khoa học, công nghệ tiếp cận công nghệ 4.0. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ không gian mạng, vũ khí công nghệ cao. Tăng cường huấn luyện, nâng cao trình độ tác chiến công nghệ thông tin, tác chiến không gian mạng; chăm lo chính sách hậu phương quân đội, công an.
Thứ năm, nâng cao năng lực dự báo và ứng phó với thách thức an ninh phi truyền thống.
Xây dựng các trung tâm nghiên cứu, cảnh báo sớm về an ninh mạng, biến đổi khí hậu, dịch bệnh toàn cầu. Đổi mới công tác nghiên cứu, xây dựng hệ thống phân tích, tổng hợp vừa có tính kế thừa truyền thống vừa kết hợp dự báo từ nguồn tin tình báo và từ dự báo chiến lược bằng ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn Big Data. Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, tình báo không gian mạng để phân tích tình hình, kịp thời nhận diện các nguy cơ, các đối tượng, để có phương án xử lý kịp thời. Hoàn thiện cơ chế phối hợp liên ngành phòng, chống tội phạm công nghệ cao, tội phạm quốc gia. Tổ chức xây dựng lực lượng chuyên trách, hiện đại để ứng phó thảm họ thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm an ninh con người.
Thứ sáu, kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, đối ngoại với quốc phòng và an ninh.
Thực hiện nhất quán quan điểm kết hợp phát triển kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, là vấn đề cấp thiết trong điều kiện mới. Xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng, tạo tiền đề để xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, tạo căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, hệ thống hạ tầng cơ sở, để phát triển giao thông vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa.
Kinh tế phát triển là điều kiện quan trọng để vũ khí trang bị của quân đội, công an ngày thêm hiện đại. Động viên các doanh nghiệp quốc phòng nghiên cứu, phát triển, sản xuất các loại vũ khí, trang bị công nghệ cao, hiện đại phục vụ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh. Các công trình xây dựng vùng trọng điểm về quốc phòng, an ninh phải mang tính “lưỡng dụng” thích ứng với điều kiện mới.
Chủ động tham gia, ký kết các hiệp định hợp tác quốc tế về an ninh mạng, chống khủng bố. Thực hiện nhất quán đường lối lối độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Tích cực tham gia cơ chế hợp tác song phương, đa phương, tăng cường quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược toàn diện. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác khu vực: ASEAN, Liên hiệp quốc… Luôn tôn trọng độc lập chủ quyền của các nước và kiên quyết bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của đất nước. Mở rộng quy mô, lực lượng tham gia vào gìn giữ hòa bình Liên hiệp quốc, qua đó nâng cao uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam.
Thứ bảy, phát huy sức mạnh của toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường giáo dục kiến thức quốc phòng, an ninh cho toàn dân, quan tâm thế hệ trẻ. Tiếp tục thực hiện đường lối quốc phòng và an ninh của Đảng và Nhà nước, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, vững chắc. Chăm lo giáo dục, bồi dưỡng công tác quốc phòng và an ninh cho cán bộ, đảng viên, nâng cao truyền thống đoàn kết, khí phách anh hùng của dân tộc. Nêu cao cảnh giác, luôn phân định đúng “đối tác”, “đối tượng” đề ra các phương án xử lý phù hợp trong tình hình mới.
Xây dựng niềm tin, niềm tự hào dân tộc, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, xây dựng thế trận “lòng dân” tạo nền tảng vững chắc, là yếu tố quyết định thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tám, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh
Trong kỷ nguyên mới, nhà nước cần xây dựng hệ thống quản lý dữ liệu về quốc phòng, an ninh tập trung, bí mật, bảo đảm an toàn thông tin trong chỉ huy, tác chiến Ứng dụng trí tuệ nhân tạo(AI), big data trong phân tích, dự báo tình hình. Phát triển “chính phủ số” trong quản lý quốc phòng, an ninh; tăng cường bảo mật, an ninh mạng trong các cơ quan, đơn vị từ Trung ương đến địa phương.
Đến năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, nền an ninh nhân dân vững chắc, kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với kinh tế – xã hội và đối ngoại. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ 4.0, chuyển đổi số trong quản lý, chỉ huy, điều hành quốc phòng, an ninh. Tăng cường thế trận “lòng dân” thành thế trận bền vững, thành trì vững chắc trong các thế hệ của người dân Việt Nam.
6. Kết luận
Quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh trong kỷ nguyên mới có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước diễn biến nhanh chóng, phức tạp, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc, hiện đại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Với sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, Việt nam có đầy đủ cơ sở để củng cố, xây dựng và phát triển nền quốc phòng vững mạnh, an ninh vững chắc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, góp phần giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Chú thích:
1. V.I.Lênin toàn tập (2005). Tập 37. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 114.
2. Bộ Quốc phòng (2018). Luật Quốc phòng Việt Nam. H. NXB Quân đội nhân dân, tr. 848.
3. Bộ Quốc phòng (2004). Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam. H. NXB Quân đội nhân dân, tr. 25.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 258.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 156.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 43.