Trần Nguyễn Sĩ Nguyên
Nghiên cứu sinh của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết tập trung nghiên cứu hệ thống tư tưởng về con người của Ngô Thì Nhậm – nhà triết học, nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao tiêu biểu nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX của Việt Nam. Tư tưởng của Ngô Thì Nhậm về con người đã hình thành một chỉnh thể hệ thống, xem xét con người toàn diện ở bốn phương diện: tự nhiên, chính trị – xã hội, đạo đức và giáo dục. Qua đó, bài viết chỉ ra ba giá trị cốt lõi có ý nghĩa đối với việc hoàn thiện chính sách con người ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Ngô Thì Nhậm, tư tưởng về con người, chính sách con người, triết học Việt Nam, phát triển bền vững.
1. Đặt vấn đề
Ngô Thì Nhậm (1746-1803) là một nhà triết học, nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao tiêu biểu cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, người đã để lại một hệ thống tư tưởng sâu sắc về con người. Trong di sản tư tưởng của Ngô Thì Nhậm luôn lấy con người làm trung tâm để kiến tạo và triển khai các luận điểm, xem việc tìm kiếm con đường giải thoát, hoàn thiện và phát triển con người như mục tiêu cốt lõi.
Tư tưởng của Ngô Thì Nhậm về con người được hình thành trên một thế giới quan nhất quán, thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa các bình diện: tự nhiên, chính trị – xã hội, đạo đức và giáo dục. Hệ thống ấy vừa tích cực, chủ động kết tinh những giá trị tiến bộ của truyền thống và nhân loại, vừa gạn lọc, phê phán những yếu tố không còn phù hợp. Việc nghiên cứu tư tưởng Ngô Thì Nhậm về con người, đặc biệt nhấn mạnh tính hệ thống, gợi mở những định hướng có giá trị đối với việc hoàn thiện chính sách phát triển con người của Việt Nam ở bối cảnh hiện nay.
2. Hệ thống tư tưởng về con người của Ngô Thì Nhậm
Các quan điểm về con người của Ngô Thì Nhậm không dừng lại ở những nhận định rời rạc, tản mạn mà đã được ông nâng lên thành một chỉnh thể tư tưởng mang tính hệ thống. Chính từ sự kết nối giữa các góc nhìn khác nhau về con người từ tự nhiên, chính trị – xã hội, đạo đức đến giáo dục, Ngô Thì Nhậm đã hình thành một quan niệm thống nhất, trong đó con người vừa là một thực thể tự nhiên, sinh học trong chỉnh thể thiên – địa – nhân, vừa là một chủ thể chính trị – xã hội, một thực thể đạo đức và đồng thời là sản phẩm và mục tiêu của giáo dục. Đây chính là bước phát triển quan trọng, đánh dấu sự chín muồi trong tư duy của Ngô Thì Nhậm, khiến ông trở thành một trong những nhà tư tưởng Việt Nam hiếm hoi thời cận đại đạt tới tầm vóc triết học, chứ không chỉ dừng ở phạm vi của các nhà nho hành đạo thông thường.
Thứ nhất, con người là chủ đề nghiên cứu xuyên suốt trong di sản tư tưởng Ngô Thì Nhậm.
Giai đoạn trước năm 1792, Ngô Thì Nhậm tập trung viết nhiều bản điều trần, kiến nghị cải cách về chính trị, trọng dụng nhân tài, phát triển kinh tế, chấn hưng văn hoá, giáo dục, nâng tầm ngoại giao… nhằm nâng cao đời sống của nhân dân, xây dựng trật tự xã hội ổn định. Tuy nhiên, những kiến nghị đổi mới của ông không được triều đình phong kiến thực hiện.
Tác phẩm nổi bật trong cuộc đời của Ngô Thì Nhậm là Xuân Thu Quản Kiến – ngẫm về thời đại Xuân Thu – Chiến Quốc của Trung Hoa để kết tinh những suy nghĩ “quản kiến” về cuộc đời của con người, về vấn đề chính trị – xã hội tương đồng với bối cảnh lịch sử Việt Nam đương thời. “Vậy tôn chỉ của Kinh Xuân Thu là ở chỗ làm sáng tỏ đạo lớn của vua và cha để dựng nên nghĩa lớn của trời đất […] Học là để biết đạo mà cửa đi đến đạo không gì gần hơn Kinh Xuân Thu. Đạo không gì khác, chỉ là trung hiếu mà thôi”1.
Hoàn thiện một bước tư tưởng về con người, Ngô Thì Nhậm tìm về sự dung hợp của Nho học với Thiền học. Giai đoạn ảnh hưởng bởi Thiền phái Trúc Lâm (1793 – 1803), Ngô Thì Nhậm đã viết tác phẩm thể hiện rõ nét tính hệ thống trong tư tưởng về con người của ông là Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Qua hai mươi bốn thanh, hầu hết những nội dung lớn về con người đều được Ngô Thì Nhậm phân tích, mổ xẻ, tìm ra phương hướng để con người nhìn rõ bản chất chân thật của cuộc sống, vượt qua khuôn khổ sinh hoạt đời thường để tìm tòi sự giải thoát. Ông viết: “Kiếp người có sinh có hóa, lúc đầu thì thác vào thai mà sinh ra, sinh ra rồi lớn lên, lớn lên thì già đi, già đi rồi chết, chết rồi nhưng tinh thần không mất, lại thụ hình mà sinh ra. Người ta có nghèo khó, nghèo khó thì phải cần kiệm, cần kiệm thì trở nên phú quý, phú quý thì sinh ra kiêu sa, kiêu sa thì trở lại nghèo khó”2.
Đi từ Không thanh đến Dư thanh, Ngô Thì Nhậm đã giải quyết có tính chất hệ thống những nội dung về con người trong mối quan hệ với tự nhiên, chính trị – xã hội, văn hóa, giáo dục. Điều đó cho phép khẳng định con người là chủ đề nghiên cứu xuyên suốt trong di sản tư tưởng Ngô Thì Nhậm. Nghiên cứu các giai đoạn lịch sử hình thành, phát triển tư tưởng về con người của Ngô Thì Nhậm, có thể bao quát sự phát triển chủ đề xuyên suốt tạo nên hệ thống tư tưởng của ông là từ sự giải thoát con người trong đời sống vật chất đến tìm tòi sự giải thoát con người ở đời sống tinh thần.
Ông thể hiện rõ mục tiêu: “Hết thảy mọi người đều ở trong ngôi nhà đang cháy, vì bị khí bẩm câu thúc, bị vật dục che lấp, không bỏ được tham lam, nên phần nhiều sa lầy trong tình ái trần ai. Nếu không có tinh hoa của nhân nghĩa đạo đức để mở ra sự che lấp ấy, thì hầu hết gỡ ra không được. Thánh nhân dạy người, điều cốt yếu là ngăn chặn tà ý, giữ lại thành ý, rời xa cái hư danh, sàm nịnh để phục hồi ánh sáng trí tuệ, như thế thì không đến nỗi phải chìm đắm trong bể khổ, mà tất cả đều được giải thoát”3.
Hệ thống tư tưởng của Ngô Thì Nhậm hướng đến mục tiêu giải thoát con người. Sự giải thoát đi liền với xây dựng một mô hình con người toàn diện, vừa có đạo đức, có trí tuệ, vừa có trách nhiệm với cộng đồng và khả năng giáo hóa con người, cải tạo xã hội: “Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ, Chu Công, Khổng Tử, hoặc cai trị thiên hạ bằng chính sự, hoặc giáo hóa thiên hạ bằng đạo đức, đều là cái đẹp sáng trong vậy. Chư Phật và Liêu, Kim, Nguyên thì hoặc dùng lời nói để thức tỉnh thiên hạ, hoặc dùng tài trí để giành thiên hạ, đều là tiếp thu được cái đẹp sâu kín, đều là những bậc thánh nhân theo vận mà sinh ra vậy. Có lẽ, ý trời không có chỗ nào là không có, nơi nào ý tới thì khí cũng tới. Có sự vận hành mười phương, thì sinh ra sự vận hành tương ứng. Nơi có thanh danh văn vật, trong thâm sơn cùng cốc, hay ở nước “khôn dư hóa ngoại” mà cứ cố theo đó để phân biệt trong ngoài thì không phải là ý trời vậy”4.
Ngô Thì Nhậm đã gợi mở một quan niệm độc đáo về sự phát triển con người theo hướng khơi mở và tùy thời làm hiển lộ cái đẹp đã có sẵn trong bản thể con người, tức “cái đẹp sáng trong” và “cái đẹp sâu kín” ở từng người cụ thể. Cái đẹp sáng trong là biểu hiện rõ ràng, là chính sự, là đức hóa như nơi các bậc thánh vương Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ, Chu Công, Khổng Tử gắn liền với sự tu thân, tề gia, trị quốc, giáo hóa bằng các phẩm chất đạo đức cao quý của con người. Cái đẹp sâu kín là chiều kích siêu nghiệm của con người, là trí tuệ và lòng từ bi như nơi chư Phật, hoặc tài trí thiên bẩm như các vị tổ Liêu, Kim, Nguyên.
Ngô Thì Nhậm quan niệm con người chân chính không chỉ là người được giáo hóa thành công theo khuôn mẫu, mà là người phát triển để làm sáng rõ cái đạo của Trời đang ẩn tàng trong mình. Đó chính là sự hiển lộ Thiên lý trong thân phận người, bởi lẽ “ý trời” không nơi nào là không có. Phát triển con người không phải là đồng hóa con người theo hệ thống chuẩn mực mà là giúp mỗi người tùy thời, tùy địa mà phát huy khí chất, đạo lý, tinh thần sáng tạo và thức tỉnh của riêng mình. Đặc biệt, Ngô Thì Nhậm loại bỏ việc áp đặt phân biệt “trong – ngoài”, “văn minh – man di” là trái với ý trời, bởi ý trời là phổ biến, lan tỏa và tương ứng – chứ không loại trừ. Phát triển con người, vì thế, là phá bỏ ranh giới hẹp hòi, cho phép mọi con người – bất kể ở thâm sơn cùng cốc hay kinh kỳ phồn hoa – đều có thể tiếp nhận khí trời, phát lộ đạo tâm, nếu có điều kiện phù hợp.
Thứ hai, tư tưởng triết học về con người của Ngô Thì Nhậm được xây dựng trên cơ sở liên kết hữu cơ, chặt chẽ tư tưởng về con người ở góc độ tự nhiên, chính trị – xã hội, đạo đức và giáo dục.
Sự thống nhất trong hệ thống tư tưởng về con người của Ngô Thì Nhậm được thể hiện ở sự liên kết chặt chẽ, thống nhất về mặt quan điểm khi ông xây dựng từng lập luận: việc của con người truy gốc từ đạo; thấu hiểu đạo là căn cứ hướng dẫn con người cách sống, hoạt động. Nắm được đạo là nắm được và xử lý được việc con người một cách thấu đáu: “Trời được cái “nhất” cho nên trong, đất được cái “nhất” cho nên yên, thánh nhân được cái “nhất” thì thiên hạ hòa bình”5.
Tìm hiểu và xây dựng hệ thống nội dung tư tưởng về con người, Ngô Thì Nhậm xuất phát từ góc nhìn rộng nhất để luận giải về những tri thức về con người: “Sự sắp đặt phần nhiều do hoá công/ Trái đất xưa nay là cái bè hỗn độn”6. Đạo, Trời, hoá công… (hay những quy luật bao trùm nhất) là điểm xuất phát để Ngô Thì Nhậm suy ngẫm về con người và xây dựng những tư tưởng về con người một cách hoàn thiện nhất có thể.
Ngô Thì Nhậm thông qua biện pháp nhân bản hóa tự nhiên để diễn đạt hệ thống tư tưởng của bản thân: “Cái lớn lao của Đạo, xuất phát từ trời, trời lưu hành trong vũ trụ, thể hiện ra ở vạn vật. Tuy cái thể thì như nhau, nhưng cái dụng thì khác, cũng như cùng một gốc mà vạn cành riêng biệt. Đường đi của nó dường như khác nẻo, nhưng thâu tóm lại đến tận gốc, tới chỗ cực kỳ tinh vi thiết yếu, thì vẫn không vượt ra khỏi cái lý lẽ ấy”7.
Theo Ngô Thì Nhậm, trong cõi trời đất, vũ trụ rộng lớn, vạn vật và con người đều vận hành theo những quy luật bao trùm thống nhất, chung một gốc tiến triển thành vạn cành riêng biệt. Ngô Thì Nhậm đã đi từ quy luật khách quan, rộng lớn, đại đạo tự nhiên để đi đến sự hiểu biết về con người, về giải thoát con người và hoàn thiện xã hội con người… Con người phải tuân theo sự vận hành của vũ trụ, nhân đạo tuân theo thiên đạo ở tất cả mọi khía cạnh. Trong tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh – tác phẩm thể hiện rõ nét tính hệ thống tư tưởng về con người của Ngô Thì Nhậm, ông bắt đầu với chương Không thanh: từ không sinh ra vạn vật, tạo hoá sinh ra con người (góc độ tự nhiên), để đi đến các thanh tiếp theo (tổng cộng 24 thanh) nhằm luận giải chi tiết và tìm tòi cách thức giải thoát con người về các góc độ chính trị – xã hội, đạo đức và giáo dục: “Khi trời chưa mở, đất chưa sinh, thì tiếng ở nơi hỗn độn; khi dương đã giáng, âm đã thăng, thì có tiếng quanh tuẩn ở đó. Xưa nay hành động và nhận thức, hết thảy đều ở trong “Tiếng không”. Tiếng có thể nghe, nhưng tìm thì không được. Chính vì vậy mà gọi là “Không”. “Không” ở đây là sự vần chuyển ở trên trời, là cái tiếng “không có tiếng”8.
Nghiên cứu về con người, Ngô Thì Nhậm nhìn nhận trời phú cho con người mệnh, con người thuận theo mệnh mà hành sự thì mọi việc đều thành. Do đó, tuân theo mệnh, lòng dạ con người thảnh thơi: “Khi đóng, khi mở, lo gì nghĩ gì?/ Bởi hun đúc là do mệnh, há trí, sức làm được chi?/ Lòng dạ thảnh thơi, tuân theo đạo không nghiêng, không ngả/ Cao xanh soi dọi, thuận lẽ trời không biết, không hay”9. Lập luận từ sự vận hành của vũ trụ đến sự vận hành của con người, Ngô Thì Nhậm viết: “Bầu vũ trụ còn lẫn lộn chưa phân/ Ở dưới đâu là sông là núi, ở trên đâu là trăng là sao?/ Ở khoảng giữa lấy dáng gì là vật, lấy hình gì là người?/ Lại làm gì có trên, có dưới, có khoảng giữa, khiến cho sự vật theo từng loại mà tụ mà phân”10. Từ đó, Ngô Thì Nhậm đi đến suy tư về những thời điểm con người bình thường thường mắc phải như bị lôi kéo khi đứng trước danh lợi, phân biệt thân và sơ, phân biệt Hoa – Di, ăn thề rồi lại dùng binh đao… đều là do tâm con người bị vật dục điều khiển, không phải bản chất của sự vật, không phải quy luật của tạo hóa: “Sao cùng theo đuổi đường danh lợi, ai thân ai sơ?/ Sao cùng đưa đón phiền hà, ai thật ai giả?/ Từ khi có thuyền và xe thì kia là rợ Miêu mà đây là rợ Huân!/ Giáo mác đã chạm nhau thì dâng ngọc, dâng lụa để cùng giao hảo!”11.
Bàn về tự nhiên để đi đến tìm hiểu cách ứng xử đúng đắn của con người, Ngô Thì Nhậm nghiên cứu nguồn gốc của sự tạo tác vạn vật do công lao của “hóa công”; nắm được đạo lớn của thiên hạ, noi theo cách thức tạo tác của tạo hóa thì con người có thể tái tạo đạo trong đời sống con người, làm cho thiên hạ thái bình thịnh trị: “Số của trời đất, bắt đầu từ một hội nguyên; lý của âm dương trước hết ở một khuyên thái cực. Số “một” là nơi hóa công chứa cái “vô tận” và thánh nhân chứa đựng cái không bao giờ cạn kiệt. Cái vô tận và cái không bao giờ cạn kiệt, chỉ có núi sông trăng gió mới đương nổi mà thôi […] Trời được “một” thì trong, đất được “một” thì yên, thánh nhân được “một” thì thiên hạ trị bình”12.
Lập luận từ đạo đến công việc của con người, Ngô Thì Nhậm đã nêu lên những tôn chỉ lớn của đạo làm người nói chung, của những con người cụ thể nói riêng. Ngô Thì Nhậm chỉ rõ vua – người cai trị tối cao trong chế độ phong kiến – không thể tự đặt ngôi vị cho mình mà phải đúng theo mệnh trời, thuận theo lòng người: “Trời mở nghiệp vua, xây dựng đô thành”13. Vua chỉ có thể thực thi nền chính trị chính đáng khi biết noi theo đạo trời: “vua thì thể theo đạo trời, giữ đạo chính với trời, là lúc phát sinh muôn vật”14. Ngô Thì Nhậm đã chỉ rõ điều mà bậc quân vương cần lưu ý: “dưới gầm trời này mọi người cùng chiêm ngưỡng chung một mặt trời và người làm vua phải kính cẩn điều răn bảo của trời”15.
Bậc quân tử, người làm quan phải biết thời, theo thời mà làm thì mới mong đạt được thắng lợi: “Quân tử biết cơ trời, cốt giữ đạo trung hợp thời”16; “Hành tàng việc ấy mặc cho hóa công”17. Theo Ngô Thì Nhậm, tuân theo đạo thì con người thảnh thơi, trung dung, “bất biến tuỳ duyên, tuỳ duyên bất biến”. Ông bày tỏ quan điểm về con người trong chính trị cần biết thuận theo tự nhiên mà hành sự, nên tiếp tục làm hay về ở ẩn, nên hành động hay im lặng…. đều tuân thủ theo quy luật thống nhất: “Đời dùng thì làm, đời bỏ thì về ẩn, ra hay ẩn, nói hay im, đều bởi hiểu thông thời vận; lời thì giữ tin, việc làm thì quyết xong, sống với chết, lo với sợ, chút không vướng vận trong lòng”18.
Là bậc bề tôi của vua, người làm quan phải biết khuyên giải vua cho thích hợp; Ngô Thì Nhậm đã dựa theo luân lý của trời đất để luận giải điều mà bậc vua chúa nên làm: “Trời che muôn vật nhưng trời không nhàm chán những âm thanh đa tạp, cho nên các loài chim được kêu, đất chở muôn loài nhưng đất không nhàm chán những âm thanh đa tạp, nên các loài sâu được ngâm, thánh nhân trị thiên hạ bằng đạo lý nhưng thánh nhân không nhàm chán những âm thanh đa tạp, cho nên những kẻ quê mùa được nói”19.
Dùng hình tượng đình trời để luận giải, Ngô Thì Nhậm đã khẳng định cách lập luận, xây dựng hệ thống tư tưởng về con người là một trong những ví dụ rõ nét cho cách luận giải của ông: từ đại đạo tự nhiên để lý giải về đạo của con người trong chính trị – xã hội, đạo đức, giáo dục: “Trời nhờ đình để sinh muôn vật, đất dùng đình để nuôi muôn loài; người lấy đình để cùng nhau tụ họp mà muôn loài muôn vật thì đều là khách […] những cái thuộc về tinh thần thì gọi là “đạo”, những cái thuộc về vật chất thì gọi là “khí” […] con người ta thì cùng sinh cùng dưỡng trong khoảng trời đất, phải noi theo lòng trung trời phú, giữ đạo thường vốn có, để có cái vui trong đạo luân thường, được yên ổn trong từng xóm ngõ thì đó là cái “thể” của hình “đạo”. Đã có cái “thể” không thể không có cái “dụng” có cái “tán” thì không thể không có cái “tụ” có cái “dị” không thể không có cái “đồng”. Có hiểu rõ được cái lẽ của sự tụ tán, đồng dị đó thì mới có thể nói được về “đạo”. “Đạo” thể hiện ra ở việc, việc thể hiện ra ở vật […] Con người cùng với trời đất cũng chỉ là một chiếc then máy […] Cương thường, lễ nhạc, thánh nhân lập ra để làm chuẩn mực cho mọi người; trung tín, hiếu đễ, thánh nhân đem ra làm khuôn phép để dạy người”20.
Theo Ngô Thì Nhậm, vũ trụ vạn vật và con người đều thống nhất; con người, nhất là thánh nhân, hiểu được sự thống nhất ấy mà hành sự thì mọi điều thuận lợi, đạt được kết quả: “Đạo lớn do trời sinh ra, bản thể của nó chỉ có thánh nhân mới bàn được đầy đủ”21. Cương thường, lễ nhạc, trung tín, hiếu đễ… được đặt ra để con người noi theo thực chất đều noi theo đạo trời do đó mà: “Lời dạy thánh hiền, đạo luân thường sáng tỏ/ Nào dốc tâm với lẽ trời, nào bày tỏ đạo làm người./ Lòng kính yêu này, có từ khi ba ngôi được lập/ Lẽ tôn ti ấy, có từ buổi trời đất hình thành”22. Nắm được lẽ ấy, bậc quân vương, thánh nhân có thể dùng ngôn ngữ, kinh sách để ghi chép lại tri thức cô đọng về đạo trời, do đó mà làm công việc giáo hoá con người.
Ngô Thì Nhậm quan niệm: “Cương thường lễ nhạc trồng ở giữa trời”23. Cách thức lập luận từ đạo lớn để đi đến đạo làm người là cách khái quát ở tầm triết học, có tính chặt chẽ mà Ngô Thì Nhậm đã vận dụng trong kho tàng di sản tư tưởng của mình đến cả những việc chi tiết trong đời sống của con người, làm rõ nội dung đạo đức trong nhân luân: “Một âm một dương thì gọi là “đạo”. Thông hiểu được đạo âm dương thì hoặc xuất, hoặc xử, hoặc im lặng, hoặc nói ra, mở ra cho rộng, suy ngẫm cho sâu, thảy đều hợp với cái nghĩa xử trí đúng lúc, sắp đặt phải thời. Ví như chuyện nam nữ kịp thời là thuận, vợ chồng sống chung một nhà phải ngay”24.
Theo Ngô Thì Nhậm, đạo trời quy định thưởng thiện phạt ác. Mặc dù không phải người ác có thể bị trời trừng phạt ngay, người thiện có thể được trời ban mọi điều tốt lành, nhưng rốt cục (ở bình diện bao quát, toàn vẹn nhất, xuyên suốt mọi thời gian) “thưởng thiện, phạt ác” đều được thi hành: “Trời chỉ là một khối thái hư, mà có thể thưởng thiện phạt ác. Tuy không theo sát từng bước đi, nhưng nhìn nghe thấy hết mọi việc. Tạo hoá lặng lẽ xoay vần vô cùng huyền diệu, nếu có kẻ đại gian ác lọt lưới pháp luật, lúc sống phú quý, đến lúc kết cục, trời sẽ mượn tay người khác để trị tội, mà không biết được cái lẽ dĩ nhiên nó là như thế”25.
Vì lý do đó, tư tưởng về con người ở góc độ đạo đức của Ngô Thì Nhậm lấy lẽ trời làm gốc; con người không thể không tuân theo lẽ trời mà hành sự. Lẽ trời là thưởng thiện phạt ác, do đó kẻ ác dù có bày mưu tính kế bao nhiều đều sớm muộn bị xử phạt, không chỉ trong thời gian mình sống mà có thể lưu tiếng xấu muôn đời: “Xưa nay kẻ gian tặc mưu tính làm việc gì, thường hay xảy ra những việc ngoài ý muốn […] Con người ta không thể khôn khéo hơn trời, vì vật cũng chỉ nên hết sức làm điều thiện mà thôi”26.
Nghiên cứu tư tưởng về con người của Ngô Thì Nhậm, tìm tòi cách thức Ngô Thì Nhậm suy tư về con người đi liền với chỉ rõ cấu trúc hệ thống tư tưởng của ông: Về chiều ngang, tư tưởng Ngô Thì Nhậm về con người là hệ thống tư tưởng về con người ở góc độ tự nhiên, chính trị – xã hội, đạo đức và giáo dục. Về chiều dọc, tư tưởng Ngô Thì Nhậm về con người là hệ thống tư tưởng luận giải những quy luật bao quát chi phối vũ trụ, vạn vật (cấp độ triết học) để tìm tòi nhận thức khách quan về con người (vấn đề sinh thành, bản chất và cách thức ứng xử giữa con người với tự nhiên; những vấn đề chính trị – xã hội, đạo đức và giáo dục) có tính thống nhất cao.
Thứ ba, tư tưởng triết học về con người của Ngô Thì Nhậm được xây dựng trên cơ sở kết tinh những giá trị tích cực để kế thừa, phát triển đi liền với phê phán những yếu tố không phù hợp.
Ngô Thì Nhậm đề cao tính nhất quán trong hệ thống tư tưởng về con người của ông. Trong Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, Ngô Thì Nhậm nêu thanh thứ mười hai là Nhất thanh, khẳng định: “Nhất là tinh nhất, không tạp, là hợp tất cả muôn việc trong thiên hạ lại làm một. Ý nghĩa ấy bao hàm rất rộng. Thái cực tóm âm dương lại làm một, âm dương tóm ngũ hành lại làm một. Đạo lý vần xoay, đi đâu mà chẳng phải là một (nhất) […] Đạo ở trong khoảng trời đất, tản ra thì có hàng vạn khía cạnh khác nhau, nhưng thâu tóm lại thì không có hai khía”27.
Tư tưởng về con người của Ngô Thì Nhậm đã được xây dựng trên cơ sở kết tinh những giá trị tích cực để kế thừa, phát triển đi liền với phê phán những yếu tố không phù hợp, đảm bảo tính chất hệ thống, không mâu thuẫn giữa các quan điểm: “Nào Nho, nào Thích, tên gọi tuy khác nhau, nhưng chỗ tinh vi của chúng thì chưa từng không giống nhau bao giờ”28. Theo đó, Ngô Thì Nhậm đã thống nhất tam giáo, mặc dù có khuynh hướng nặng về Nho. Ông lấy những điểm cốt lõi, tích cực của Nho, Phật, Đạo để tạo nên sự nhất quán trong hệ thống tư tưởng về con người của mình. Đặc sắc của Ngô Thì Nhậm là xử thế theo Nho, xuất thế theo Phật, nhập thế theo Đạo tạo nên nét đặc sắc trong cuộc sống của ông.
Tính hệ thống đòi hỏi Ngô Thì Nhậm chắt lọc tinh hoa tư tưởng dân tộc, nhân loại theo lập trường của mình. Ông thẳng thắn phê phán những yếu tố không dung hợp với hệ thống tư tưởng về con người của ông: “Tục Nho dùng âm dương phong thuỷ làm chỗ để cầu phú cầu quý, cố nhiên là “giống như đúng mà thực sự là sai”. Trang Lão có thuyết “diều quạ kiến bọ” thì lại là bừa bãi quái gở, không hợp với đạo. Từ xưa đến nay, Thiền gia vẫn lấy Viên tịch làm siêu thoát, lấy Xả thân làm chân tu. Trong đó, tự toát ra một ý sâu xa, ít người biết đến. Tục tăng cũng học Thiền mà lạc hướng, bèn có những việc thiêu thân, cát thể làm mất hẳn cái nghĩa thủ thân”29.
Bản chất hệ thống tư tưởng Ngô Thì Nhậm về con người không phải đơn giản là chắt lọc những nội dung phù hợp với mục đích của ông. Có thể nhìn nhận cách thức Ngô Thì Nhậm chắt lọc những giá trị tinh hoa tư tưởng Tam giáo là lấy cái khách quan làm gốc, đối chiếu lý luận và thực tiễn để xây dựng nên hệ thống tư tưởng về con người bám sát thực tế. Hệ thống tư tưởng về con người của Ngô Thì Nhậm là kết quả của quá trình chiêm nghiệm lý luận, đối chiếu thực tiễn để đúc kết nên những nội dung nền tảng của con người, có tính chất hệ thống sâu sắc.
Tóm lại, tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm về con người là một hệ thống tư tưởng mang tính nhất quán. Tính hệ thống trong tư tưởng ấy không chỉ thể hiện ở cấu trúc logic mà còn nằm trong phương pháp tiếp cận: kế thừa có chọn lọc, phát triển trên tinh thần phê phán. Ngô Thì Nhậm luôn nỗ lực gạn lọc những tinh túy cần giữ, cái gì là hình thức cần cải biến trong tinh hoa tư tưởng dân tộc, triết lý nhân sinh của phương Đông, từ đó xây dựng nên một hệ thống tư tưởng triết học về con người đặc sắc của ông.
3. Giá trị tham khảo tư tưởng Ngô Thì Nhậm trong xây dựng chính sách con người tại Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu triết học về con người, đặc biệt từ di sản tư tưởng của Ngô Thì Nhậm – nhà tư tưởng tiêu biểu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, không chỉ dừng lại ở bình diện lý luận, mà còn có giá trị khoa học trực tiếp đối với việc hoạch định chính sách con người tại Việt Nam hiện nay. Giá trị ấy thể hiện ở chỗ, nghiên cứu giúp cung cấp một phương án tư duy khoa học để nhìn nhận con người có tính chất hệ thống trên các lĩnh vực tự nhiên, chính trị – xã hội, đạo đức và giáo dục. Chính tính toàn diện và hệ thống này mở ra cơ sở khoa học để khắc phục lối tiếp cận phiến diện về con người, định hướng cho việc thiết kế những chính sách quản lý nhà nước về con người đậm chất nhân văn, có tính hiệu lực và tính bền vững. Bước đầu nghiên cứu, tác giả đúc kết ba giá trị cốt lõi khi nghiên cứu tư tưởng Ngô Thì Nhậm về con người với việc hoàn thiện chính sách con người ở Việt Nam hiện nay:
Giá trị thứ nhất, khẳng định nguyên tắc lấy con người làm trung tâm, là mục tiêu của mọi chính sách phát triển quốc gia.
Ngô Thì Nhậm nhìn nhận con người là khởi điểm của mọi tư duy triết học, là trọng tâm của mọi chính sách chính trị, phát triển đất nước. Đặt con người ở vị trí trung tâm có nghĩa là mọi hoạt động, cải cách, đổi mới nền chính trị phải quy về mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân, hướng tới giải thoát con người. Trong lịch sử, Ngô Thì Nhậm từng mạnh dạn dâng điều trần cải cách về kinh tế, văn hóa, ngoại giao nhằm nâng cao đời sống của dân, cho dù nhiều kiến nghị không được triều đình Lê – Trịnh thực thi; những kiến nghị ấy đã được thực hiện trong thời kỳ ông phụng sự cho vua Quang Trung. Ở đó, ông đã thể hiện rõ tinh thần “dân vi bản”, xem hạnh phúc và sự an cư của con người bình thường mới là nền tảng của thiên hạ thái bình.
Ngày nay, việc hoàn thiện chính sách con người ở Việt Nam cũng cần đặt “con người làm trung tâm” theo nghĩa rộng: mọi chiến lược phát triển kinh tế phải quy về nâng cao chất lượng cuộc sống; mọi cải cách thể chế phải hướng tới bảo đảm quyền con người và quyền công dân; mọi chính sách xã hội phải tạo cơ hội công bằng để mỗi cá nhân phát huy tiềm năng… Lấy con người làm trung tâm cũng đồng nghĩa với việc nhìn nhận dân không chỉ là đối tượng được “ban phát” chính sách, mà là chủ thể tham gia, đồng kiến tạo và thụ hưởng. Trong tiến trình đổi mới tư duy quản lý, vấn đề con người ngày càng trở thành trung tâm của mọi chiến lược phát triển của Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới.
Với thế và lực sau 40 năm đổi mới đất nước, với thời cơ, vận hội mới, chúng ta đang đứng trước cơ hội lịch sử để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đặt ra yêu cầu cấp bách tiếp tục phát triển tư duy, nhận thức mới về con người và quyền con người xã hội chủ nghĩa nhằm huy động cao nhất nguồn lực con người xã hội chủ nghĩa, khơi thông mọi nguồn lực, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển đột phá30. Giá trị từ tư tưởng Ngô Thì Nhậm là lời nhắc nhở mạnh mẽ: mọi hoạch định, mọi cải cách, mọi chiến lược đều phải quy về con người, bởi đó là gốc và cũng là đích đến của quốc gia.
Giá trị thứ hai, tiếp cận toàn diện trong xây dựng và thực thi chính sách con người trên các phương diện tự nhiên, chính trị – xã hội, đạo đức và giáo dục.
Tư tưởng về con người của Ngô Thì Nhậm nổi bật ở tính hệ thống, toàn diện. Ngô Thì Nhậm xem xét con người trong chỉnh thể tự nhiên có những nhu cầu bản năng thiết yếu, nhu cầu ấy được thực hiện trong một nền chính trị lấy con người làm trung tâm, được điều chỉnh và dẫn dắt bởi thiên tính thông qua con đường tu dưỡng đạo đức, giáo dục xã hội… Nhờ đó, Ngô Thì Nhậm đã kiến tạo được một cái nhìn tổng thể về con người, giúp giải thích và dẫn đường cho hành động của ông, nhất là trong góp ý cải cách, đổi mới nền chính trị – xã hội đương thời. Với bốn phương diện đó, giá trị thứ hai mà Ngô Thì Nhậm để lại chính là nguyên tắc tiếp cận toàn diện: chỉ khi con người được nhìn nhận trong toàn bộ các quan hệ tự nhiên, chính trị – xã hội, đạo đức và giáo dục, chính sách con người mới có thể đạt tới sự hài hòa và bền vững.
Phương pháp tiếp cận toàn diện này vẫn giữ nguyên giá trị gợi mở, định hướng cho việc hoàn thiện chính sách con người trong kỷ nguyên mới ở Việt Nam. Xét ở bình diện tự nhiên, chính sách con người phải chăm lo đầy đủ cho đời sống vật chất, sức khỏe và môi trường sống của nhân dân, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái, chú trọng phát triển bền vững. Xét ở bình diện chính trị – xã hội, việc phát huy vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong định hướng, lãnh đạo sự nghiệp phát triển con người, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, hoàn thiện hệ thống chính trị theo tinh thần “Tinh – Gọn – Mạnh – Hiệu năng – Hiệu lực – Hiệu quả”31 chính là sự hiện thực hóa tinh thần đặt con người, quyền con người làm nền tảng của thể chế. Xét ở bình diện đạo đức, tập trung xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới phản ánh đúng tinh thần lấy đạo đức làm cốt lõi của con người. Cuối cùng, xét ở bình diện giáo dục, tư tưởng Ngô Thì Nhậm gợi mở việc thúc đẩy các chiến lược đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, học tập suốt đời, đột phá phát triển giáo dục và đào tạo32… vì sự nghiệp giáo dục, hoàn thiện con người ở cấp độ bản thể.
Nói cách khác, chính sách con người ở Việt Nam hiện nay cần được triển khai trên nền tảng tiếp cận toàn diện, trong đó các lĩnh vực tự nhiên, chính trị, đạo đức và giáo dục không thể tách rời mà phải tương tác, bổ trợ lẫn nhau. Đây là con đường để phát triển con người Việt Nam toàn diện, đáp ứng yêu cầu vừa giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, vừa hội nhập và thích ứng với những biến đổi của thế giới đương đại… Đây là nền tảng cho việc thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển quốc gia trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Giá trị thứ ba, không ngừng kế thừa, chọn lọc tư tưởng tinh hoa nhân loại và bồi đắp truyền thống văn hóa, triết lý nhân sinh của Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm kiến tạo một hệ thống chính sách con người năng động, thích ứng và bền vững.
Điểm đặc sắc ở Ngô Thì Nhậm là ông không bảo thủ trong một khuôn mẫu tư tưởng, mà luôn tìm cách dung hợp, kế thừa và phê phán. Ông tiếp nhận Nho, Phật, Đạo, nhưng không hòa trộn một cách máy móc. Ông chỉ giữ những giá trị tinh hoa – như nhân nghĩa của Nho, trí tuệ giải thoát của Phật và tính tự nhiên của Đạo, đồng thời loại bỏ những yếu tố mà ông cho là “tục Nho”, “tục tăng” hoặc “quái gở, bừa bãi”. Đây là phương pháp kế thừa có phê phán, phát triển trong dung thông mà ít trí thức cùng thời đạt tới.
Giá trị này có ý nghĩa lớn trong xây dựng chính sách hôm nay. Một chính sách con người muốn sống động thì không thể “đóng khung” trong một bộ khung lý thuyết cứng nhắc, mà phải liên tục học hỏi, tiếp thu, gạn lọc. Điều này gợi mở: bên trong cần biết kế thừa di sản tư tưởng dân tộc, nhất là truyền thống nhân văn Việt Nam; bên ngoài phải tiếp nhận có chọn lọc các giá trị nhân loại về nhân quyền, bình đẳng, phát triển bền vững, kinh tế tri thức; trong xây dựng và thực thi chính sách con người, cần xây dựng cơ chế đánh giá, phản hồi, cải tiến chính sách liên tục, để cái hay, cái phù hợp được giữ lại, cái xấu, cái chưa phù hợp được loại bỏ…
Chú trọng tiếp thu trên tinh thần phản biện, phát triển con người lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng phương pháp luận để đối chiếu. Không ngừng bồi đắp tinh hoa tư tưởng còn có nghĩa là hoàn thiện chính sách con người thích ứng trước sự biến đổi nhanh chóng của đất nước, của thời đại. Điều này đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và chuyển đổi số, khi các giá trị, chuẩn mực và nhu cầu con người thay đổi nhanh chóng. Nếu chính sách không kịp điều chỉnh, nó sẽ lạc hậu, giống như “tục Nho” mà Ngô Thì Nhậm từng phê phán.
Như vậy, giá trị thứ ba chính là tinh thần năng động: không ngừng tiếp thu, gạn lọc và làm giàu cho chính sách con người bằng cả tinh hoa truyền thống và tri thức nhân loại. Đó cũng là con đường để Việt Nam xây dựng một hệ chính sách con người vừa mang đậm bản sắc dân tộc, vừa hiện đại và hội nhập quốc tế.
4. Kết luận
Tư tưởng của Ngô Thì Nhậm về con người lấy con người làm trung tâm nghiên cứu, tiếp cận toàn diện con người và không ngừng bồi đắp truyền thống văn hóa dân tộc, triết lý nhân sinh, tiếp thu có phê phán tinh hoa tư tưởng phương Đông. Nghiên cứu không chỉ đóng góp vào việc tìm hiểu lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam mà còn cung cấp những gợi ý cho việc hoàn thiện chính sách con người trong bối cảnh đương đại. Đó là sự gặp gỡ giữa truyền thống và hiện đại, giữa tư tưởng triết học phương Đông với yêu cầu quản trị quốc gia thời đại mới. Nghiên cứu, vận dụng và phát triển các giá trị ấy sẽ góp phần quan trọng vào việc hình thành những chính sách nhân văn, toàn diện, bảo đảm cho sự phát triển con người Việt Nam cả về bản thể, nhân cách, trí tuệ lẫn năng lực hành động, là nền tảng cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Chú thích:
1, 14, 15, 25, 26. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2005b). Ngô Thì Nhậm toàn tập. Tập IV. H. NXB Khoa học Xã hội, tr. 18 – 19, 51, 211, 204, 206.
2, 3, 4, 5, 7, 8, 27, 28, 29. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2006). Ngô Thì Nhậm toàn tập. Tập V. H. NXB Khoa học Xã hội, tr. 389 – 390, 209, 352, 272, 37, 124, 271-272, 340, 340-341.
6, 16, 17, 22, 24. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2004). Ngô Thì Nhậm toàn tập. Tập II. H. NXB Khoa học Xã hội, tr. 57, 292, 289, 65, 211.
9, 10, 11, 12, 13, 18, 19, 20, 21, 23. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2003). Ngô Thì Nhậm toàn tập. Tập I. H. NXB Khoa học Xã hội, tr. 342-343, 397, 397, 445 – 446, 413, 343, 749, 456, 759, 229.
30. Tô Lâm (2024). Thư gửi Hội thảo khoa học quốc gia: Con người, quyền con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước. https://hcma.vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?cm=6&ItemID=18485
31. Tô Lâm (2024). Tinh – Gọn – Mạnh – Hiệu năng – Hiệu lực – Hiệu quả. https://baochinhphu.vn/bai-viet-cua-tong-bi-thu-to-lam-tinh-gon-manh-hieu-nang-hieu-luc-hieu-qua-102241105172459096.htm, ngày 05/11/2024.
32. Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.