TS. Trần Thị Bích Huệ
Đại học Công nghiệp Hà Nội
TS. Hà Thị Thùy Dương
Học viện Chính trị khu vực IV
(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số được Đảng ta xác định đã góp phần quan trọng vào việc phát triển bền vững đất nước; đồng thời, Đảng cũng nhấn mạnh để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số một cách bền vững cần chú ý đến tính đặc thù và phát huy ý chí tự lực, tự cường của dân tộc thiểu số. Bài viết phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tầm quan trọng, nội dung phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Từ khóa: Kinh tế – xã hội, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, phát triển bền vững, tự lực, tự cường.
1. Tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức được việc phải quan tâm phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế – xã hội miền núi: “Miền núi là địa bàn rộng lớn, chiếm 3/4 diện tích tự nhiên của nước ta, là nơi sinh sống lâu đời của phần lớn các dân tộc thiểu số, có tiềm lực kinh tế to lớn, có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, bao gồm đất, rừng, sinh vật, thủy năng, khoáng sản, cây công nghiệp… với địa thế cao dốc và thảm thực vật lớn, miền núi đóng vai trò quyết định đối với môi trường sinh thái của cả nước. Nằm dọc biên cương phía Bắc và phía Tây Tổ quốc, miền núi lại có nhiều cửa ngõ thông thương giữa nước ta với thế giới và các nước trong khu vực cho nên có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng và an ninh”1.
Như vậy, Đảng đã khẳng định miền núi là địa bàn chiến lược quan trọng về các mặt kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, môi trường sinh thái ở miền núi mà đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Miền núi có nhiều tài nguyên để phát triển lâm nghiệp và nhiều sản phẩm có giá trị có thể khai thác từ rừng, có thể phát triển các ngành công nghiệp chế biến gỗ. Một số vùng của miền núi có thể xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp như cây công nghiệp, trái cây… Mặt khác, miền núi là nơi có nhiều khoáng sản để phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng, có điều kiện để phát triển thủy điện; là địa bàn chiến lược quan trọng về mặt quốc phòng, an ninh do địa hình hiểm trở, rất thuận lợi cho việc phòng thủ hay tấn công.
Miền núi ở nước ta chủ yếu là ở biên giới, Việt Nam có hơn 4.000 km đường giới trên bộ; trong đó, có hơn 3.000km là ở vùng đồi núi, đồng bào sinh sống ở đây trực tiếp góp phần giữ gìn biên giới quốc gia. Miền núi còn có vai trò quan trọng về mặt môi trường sinh thái chung của cả nước vì nơi đây tập trung nhiều rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ; đồng thời, lại có nhiều công trình thủy điện có thể ảnh hưởng đến môi trường sinh thái ở miền xuôi. Do đó phát triển kinh tế – xã hội ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của cả nước.
Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị, khẳng định: “phát triển kinh tế – xã hội miền núi là một bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển nên kinh tế quốc dân. Một mặt, các địa phương miền núi có trách nhiệm góp phần thực hiện những chủ trương chiến lược phát triển kinh tế, xã hội chung của cả nước”. Khi phát triển kinh tế – xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi sẽ đánh thức, khơi thông được các nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Hơn nữa, đất nước chỉ phát triển khi mọi vùng đều phát triển trong đó có vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vì vậy, “Khai thác và xây dựng miền núi là vì lợi ích trực tiếp của nhân dân miền núi, đồng thời vì lợi ích chung của cả nước”.
Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội khóa XIV về “Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025”, khẳng định: “Đầu tư phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là đầu tư cho phát triển bền vững đất nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số so với bình quân của cả nước”. Như vậy, nếu như trước đây Đảng ta khẳng định phát triển kinh tế – xã hội miền núi góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội của cả nước thì hiện nay chúng ta nhận thức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số góp phần vào phát triển bền vững đất nước. Khái niệm phát triển bền vững yêu cầu phát triển kinh tế nhưng phải giải quyết tốt vấn đề về xã hội, an ninh chính trị và môi trường sinh thái.
Sở dĩ việc phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số góp phần phát triển bền vững đất nước như Đảng ta đã chỉ ra, đó là, do có sự chênh lệch về trình độ giữa các dân tộc. Việc thúc đẩy sự phát triển nhằm làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, đồng bào dân tộc thiểu số tiến kịp đồng bào dân tộc đa số. Như vậy, sẽ góp phần giải quyết tốt vấn đề xã hội, xóa bỏ sự phân hóa giàu nghèo, là cơ sở cho sự ổn định chính trị – xã hội để phát triển bền vững đất nước. Nhất là các thế lực thù địch hiện nay đang triệt để lợi dụng sự chênh lệch này để tạo ra sự nghi kỵ giữa các dân tộc, xúi giục gây bất ổn xã hội, làm cho đất nước không phát triển được.
2. Nội dung phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Đảng khẳng định, cần phát triển toàn diện, tất cả các mặt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đại hội VII, Đảng ta chỉ rõ nội dung của phát triển kinh tế – xã hội là: “Nhà nước hỗ trợ về đầu tư mở mang giao thông vận tải, bảo vệ môi trường, tài trợ cho y tế, giáo dục và đào tạo cán bộ người dân tộc; đồng thời, thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, tiền lương; giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc; tôn trọng tiếng nói và có chính sách đúng đắn về chữ viết đối với các dân tộc… Đặc biệt, có chính sách khắc phục tình trạng suy giảm dân số đối với một số dân tộc ít người; chính sách phát triển giáo dục và đào tạo ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng và nâng cao chất lượng các trường, lớp nội trú, coi trọng việc đào tạo cán bộ và trí thức người dân tộc”2.
Đến Đại hội VIII (1996), nội dung của việc phát triển kinh tế – xã hội được Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng Luật Dân tộc từ nay đến năm 2000 bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc thực hiện cho được 3 mục tiêu chủ yếu: (1) Xóa được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng biên giới; (2) Xóa được mù chữ, nâng sao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; (3) Xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên của các cấp trong sạch và vững mạnh”3.
Nội dung phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Đại hội X của Đảng có sự mở rộng nội dung, như chú ý phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số “xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương”4.
Có thể khẳng định, quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế – xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số rất toàn diện. Về kinh tế, Đảng ta nhấn mạnh đến việc phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, xóa đói giảm nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số, phát triển kinh tế hàng hóa, xóa bỏ dần tình trạng tự cung, tự cấp. Về mặt văn hóa – xã hội, tạo điều kiện cho đồng bảo dân tộc tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế chăm sóc sức khỏe, giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc. Về mặt chính trị, phát triển đội ngũ cán bộ, trí thức người dân tộc thiểu số, phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Từ Đại hội XI của Đảng, trong thực hiện phát triển kinh tế – xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng nhấn mạnh đến việc tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế – xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Và, nội dung này tiếp tục được khẳng định ở Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng: “tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Duyên hải miền Trung”5. Sở dĩ, Đảng ta nhấn mạnh đến việc “tạo chuyển biến rõ rệt” vì qua nhiều năm đổi mới, sự chênh lệch trình độ phát triển kinh tế – xã hội giữa dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số vẫn chưa được cải thiện nhiều do đó phải có những phát triển đột phá để thay đổi và khắc phục tình trạng này.
3. Tính đặc thù trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Bảo đảm tính đặc thù trong chính sách phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý bởi đặc điểm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số khác với vùng của đồng bào dân tộc đa số: “Miền núi đất rộng người thưa, tình hình vùng này không giống với tình hình vùng khác. Vì vậy, áp dụng chủ trương và chính sách phải thật sự sát với tình hình thực tế của mỗi nơi. Tuyệt đối chớ rập khuôn, chớ máy móc, chớ nóng vội”6. Không phải đến đổi mới Đảng ta mới nhận thức được việc bảo đảm tính đặc thù trong chính sách dân tộc, mà ngay từ khi lãnh đạo đất nước, Đảng ta đã nhận thức rõ việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải phù hợp với từng vùng. Bởi lẽ, vùng đồng bào dân tộc thiểu số thường là miền núi có đặc điểm khác với vùng miền xuôi: “Tính chất vùng của miền núi rất phức tạp, không những có vùng thấp, vùng giữa, vùng cao, mà ngay trong mỗi vùng đó tình hình khí hậu, đất đai, tập quán và kỹ thuật canh tác, thành phần dân tộc cũng khác nhau rất nhiều.
Trong khi lãnh đạo nông nghiệp ở miền núi, cần phải chú ý đến sự khác nhau của từng vùng đó và phải đặc biệt chú ý đến việc chấp hành đúng chính sách đoàn kết dân tộc”7. Cùng là vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhưng có dân tộc sống ở vùng núi cao, có dân tộc sống ở vùng thấp nên phải chú ý đến đặc điểm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số: “Khuynh hướng rập khuôn theo miền xuôi, không linh hoạt đói với các vùng khác nhau còn rất phổ biến. Khuynh hướng đó thể hiện qua chủ trương, biện pháp, hệ thống chương trình giáo dục, đồ dùng giảng dạy còn thiếu thốn và cả trong cách thức đào tạo cán bộ. Các hình thức trường lớp cũng không thích hợp với đặc điểm cư trú phân tán, giao thông khó khăn của miền núi”8; “Nóng nảy, vội vàng, áp dụng máy móc kinh nghiệm của miền xuôi vào miền ngược, của vùng thiểu số tương đối tiến bộ hơn vào vùng thiểu số còn kém phát triển”9. Do đó, Đảng đã khẳng định các chính sách phát triển kinh tế – xã hội phải phù hợp với từng vùng và từng dân tộc.
Đại hội VII nhấn mạnh “Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”10. Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định tinh thần này nhưng ngắn gọn và súc tích hơn: “Các chính sách kinh tế – xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”11.
Đặc điểm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số bao gồm cả những đặc thù về điều kiện tự nhiên cũng như lịch sử, văn hóa. Vì vậy, Đảng thẳng thắn phê phán mặt hạn chế là chưa đảm bảo tốt tính đặc thù trong xây dựng chính sách dân tộc: “Chưa tổ chức nghiên cứu một cách tàn diện, tổng thể các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh của miền núi gắn với vấn đề dân tộc trong việc xác định chủ trương, chính sách đối với miền núi”12; đồng thời, Đảng yêu cầu phải bảo đảm tính đặc thù trong tổ chức thực hiện: “Việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách chung ở miền núi phải tính đầy đủ đến những đặc điểm về tự nhiên, lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, phong tục, tập quán của miền núi nói chung và của riêng từng vùng, từng dân tộc, trong việc này cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò năng động, sáng tạo của địa phương và cơ sở”13. Điều này đã được Đảng khẳng định khái quát hơn trong Văn kiện Đại hội XIII “Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc”14. Xây dựng chính sách dân tộc không phù hợp với đồng bào dân tộc thiểu số cũng sẽ không hiệu quả, đồng bào sẽ không tích cực thực hiện. Kể cả khi chính sách phù hợp rồi thì quá trình tổ chức thực hiện cũng phải chú ý đặc điểm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số để triển khai cho hiệu quả.
Để bảo đảm tính đặc thù trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội, cần phải nắm cho đúng, trúng đặc điểm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số: “Phải điều tra, nghiên cứu kỹ tình hình các vùng dân tộc thiểu số về mọi mặt để định ra những chủ trương, kế hoạch thích hợp với hoàn cảnh và trình độ của nhân dân từng địa phương”15. Phải điều tra, nghiên cứu tìm hiểu cho kỹ, bằng nhiều kênh thông tin khác nhau để nắm bắt nhiều nhất thông tin về vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, phải tăng cường vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số tham gia vào xây dựng và thực hiện chính sách. Mở rộng đồng bào dân tộc thiểu số tham gia vào các cơ quan xây dựng và thực hiện chính sách phát triển ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời, đổi mới cơ chế xây dựng chính sách là phải luôn lắng nghe ý kiến của đồng bào, xây dựng chính sách theo hướng từ dưới lên chứ không phải từ trên xuống.
4. Chính sách phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải phát huy được nội lực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào
Đảng ta luôn khẳng định phát triển kinh tế – xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, trong đó thấy được vai trò, trách nhiệm của các cơ quan Đảng và Nhà nước. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trung ương Đảng và Chính phủ, mà trực tiếp là các cấp ủy đảng, các ủy ban địa phương, các cô, các chú, phải làm sao nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc”16. Ở đây, Đảng ta khẳng định vai trò của cả cơ quan Đảng và Nhà nước, từ trung ương đến địa phương, từng cán bộ, công chức công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đều có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Mỗi chủ thể có vai trò riêng. Nếu như các cơ quan Trung ương quyết định việc phân bổ ngân sách, quyết định đường lối, chính sách phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số thì cơ quan, chính quyền địa phương quyết định hiệu quả của việc thực hiện các chính sách đó. Ngoài hệ thống chính trị thì từng người dân, những đồng bào dân tộc đa số phát triển hơn cũng có vai trò quan trọng, hỗ trợ nguồn lực để phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đảng nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt quan trọng của chính đồng bào dân tộc thiểu số vì vậy phải phát huy ý chí tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc thiểu số, khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ. Tâm lý này không chỉ ở trong nhân dân, đồng bào dân tộc thiểu số mà cả trong cán bộ công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số “Một bộ phận cán bộ, đảng viên vùng dân tộc còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, chưa chủ động khơi dậy và phá huy tốt các nguồn lực của địa phương”17. Mặc dù nguồn lực nhà nước là quan trọng nhưng phải huy động nhiều nguồn lực khác cho phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vì vậy, cán bộ công tác ở địa phương phải năng động, sáng tạo trong thực hiện các chính sách này. Tuy nhiên, vẫn còn có một số cán bộ chưa thật sự tìm mọi giải pháp để vươn lên thoát khỏi xã nghèo.
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số cũng vậy, còn có tâm lý ỷ lại “nghèo đã có Nhà nước” lo nên không nỗ lực, cố gắng. Sự hỗ trợ về nguồn lực từ bên ngoài, từ Nhà nước và Nhân dân là rất quan trọng nhưng nguồn lực đó có phát huy được tác dụng hay không là phụ thuộc vào nguồn nội lực, nguồn lực bên trong của chính đồng bào dân tộc thiểu số. Nếu có tâm lý ỷ lại trông chờ thì sẽ không sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho sự phát triển và vì vậy cũng không thể phát triển bền vững. Vì vậy, Đại hội XIII Đảng, khẳng định: “Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”18. Ở đây Đảng khẳng định để phát huy được ý chí tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc thiểu số thì phải có cơ chế, chính sách cụ thể.
Trước đây chính sách của chúng ta là cho con cá, chỉ tạo ra tâm lý ỷ lại của đồng bào, vì vậy, không cho con cá mà cho cần câu. Các chính sách hỗ trợ đất sản xuất, cho vay tín dụng, hỗ trợ giống cây, con thực chất chính là cho cần câu. Tuy nhiên, chúng ta cho cần câu, trong hồ câu có cá mà đồng bào vẫn không câu được cá vì chưa biết cách câu. Cho nên cho con cá hay dạy cách câu đều là khẳng định xu hướng muốn phát huy nội lực từ đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nội lực cho phát triển, nên Đảng: “Huy động mọi nguồn lực tại chỗ và cả nước… Khai thác đi đôi với bảo vệ, tái tạo các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo đảm lợi ích của các dân tộc”19. Để phát triển kinh tế – xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải huy động mọi nguồn lực từ Nhà nước đến Nhân dân, thậm chí tranh thủ sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế nhưng vấn đề quan trọng là phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó, nếu không, nguồn lực nhiều cũng sẽ bị lãng phí, không sử dụng hiệu quả. Đến Đại hội XIII, Đảng chủ trương: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”20. Việc phát huy ý chí tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc thiểu số chính là góp phần sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Thực chất mọi chính sách của Đảng đều hướng đến phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào. Từ thực tiễn lãnh đạo, Đảng đã rút ra những vấn đề có tính căn cốt nhất, quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu này. Những quan điểm này là cơ sở định hướng cho Nhà nước xây dựng các chính sách cụ thể, vì vậy cần được quán triệt một cách sâu sắc trong các cơ quan xây dựng và thực thi chính sách. Chỉ khi nào thể hiện đầy đủ những nội dung này trong quan điểm của Đảng, chúng ta mới có sự chuyển biến thực sự, bền vững trong đời sống của đồng bào trên thực tế, từ đó hiện thực hóa mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chú thích:
1. Bộ Chính trị (1989). Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 27/11/1989 về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế – xã hội miền núi.
2, 19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. H. NXB. Sự thật, tr. 77, 77.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 125.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 121 – 122.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 164.
6. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 461.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 24. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr.124.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 25. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 216.
9, 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 13. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 264, 281.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 51. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 104 – 105.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 81.
12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 49. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 844, 845.
14, 18, 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 170, 170, 170.
16. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 166.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003). Văn kiện Hội nghị Trung ương 7 khóa IX. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 33.