TS. Nguyễn Đức Trí
ThS. Vũ Đức Vĩnh
ThS. Lê Đình Thụ
Học viện Chính trị – Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng là yêu cầu khách quan trong đường lối cách mạng Việt Nam. Trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước, Đảng và Nhà nước luôn nhất quán quan điểm: độc lập dân tộc phải đi đôi với phát triển kinh tế, còn phát triển kinh tế chỉ có ý nghĩa và bền vững khi gắn liền với bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh mới có nhiều biến động sâu sắc, việc nghiên cứu, phân tích và xác định rõ những yêu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng không chỉ mang tính lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh gắn với một nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển bền vững.
Từ khóa: Kinh tế, quốc phòng, kết hợp kinh tế với quốc phòng.
1. Bối cảnh hiện nay
Trong những những năm gần đây, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của Việt Nam. Cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc trên thế giới diễn ra gay gắt cả về kinh tế, thương mại, khoa học – công nghệ, quốc phòng – an ninh tạo nên sự phân hóa lợi ích và gia tăng nguy cơ bất ổn toàn cầu. Bên cạnh đó, bối cảnh xung đột Nga – Ukraine kéo dài,… ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng – an ninh của Việt Nam trước nguy cơ bị lôi kéo, lệ thuộc, chi phối bởi các nước lớn.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tuy tiếp tục là xu thế chủ đạo nhưng đang bộc lộ nhiều rào cản mới, như: chủ nghĩa bảo hộ, xung đột thương mại cho đến sự đứt gãy của các chuỗi cung ứng,… Trong bối cảnh đó, Việt Nam vừa có cơ hội mở rộng thị trường, tiếp cận khoa học – công nghệ, vừa đứng trước nguy cơ bị cuốn vào vòng xoáy cạnh tranh và phụ thuộc. Đặc biệt, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với tốc độ lan tỏa mạnh mẽ đang làm thay đổi sâu sắc phương thức sản xuất và các hình thức tác chiến, nghệ thuật quân sự. Trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ vũ trụ, công nghệ sinh học, vũ khí thông minh, hiện đại… trở thành nhân tố mới trong cạnh tranh chiến lược. Ai chiếm ưu thế công nghệ sẽ có lợi thế cả về kinh tế lẫn quốc phòng. Với Việt Nam, cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra cơ hội rút ngắn khoảng cách phát triển, xây dựng “nền kinh tế số” đồng thời hiện đại hóa quốc phòng, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ tụt hậu nếu không tận dụng kịp thời.
Xu thế đan xen vừa hợp tác nhằm thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia và quốc tế trong giải quyết các vấn đề toàn cầu, vừa đấu tranh vì lợi ích chiến lược của từng quốc gia, nhóm quốc gia, khu vực; tranh chấp chủ quyền, tài nguyên, xung đột biên giới đất liền và trên biển đang đe dọa trực tiếp đến môi trường hòa bình, ổn định của khu vực ASEAN và quốc tế. Đòi hỏi Việt Nam vừa phải kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, “đa phương hóa, đa dạng hóa”, vừa không để bị lôi kéo vào các cuộc xung đột, đối đầu chiến lược.
Ở trong nước, sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, quy mô GDP Việt Nam năm 2024 đạt 476,3 tỷ USD, đứng thứ 33 thế giới; tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định thuộc nhóm đầu thế giới, năm 2024 đạt 7,09%; các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, vị thế quốc tế không ngừng được nâng cao, đời sống nhân dân từng bước cải thiện1. Đây là nền tảng vật chất quan trọng để huy động nguồn lực cho xây dựng tiềm lực quốc phòng toàn dân và nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia. Hệ thống phòng thủ khu vực ngày càng được củng cố, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được triển khai đồng bộ.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với hội nhập quốc tế tạo điều kiện mới cho kết hợp kinh tế với quốc phòng. Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, như: Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA) mở ra cơ hội lớn cho phát triển kinh tế biển, kinh tế số, công nghệ cao và kết hợp trực tiếp với củng cố tiềm lực quốc phòng. Nhiều ngành công nghiệp trọng điểm (đóng tàu, điện tử, công nghệ thông tin, dầu khí, hàng không vũ trụ) đã từng bước phát triển, trong đó có những lĩnh vực lưỡng dụng phục vụ cả kinh tế và quốc phòng.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, quá trình đô thị hóa và hội nhập sâu rộng, nếu không được định hướng gắn kết với quốc phòng, có thể dẫn tới sự phụ thuộc vào vốn, công nghệ, thị trường bên ngoài; tạo ra những khoảng trống về an ninh, thậm chí tiềm ẩn nguy cơ bị các thế lực bên ngoài lợi dụng, chi phối nếu không bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Hơn nữa, sự phát triển chưa đồng đều giữa các vùng, nhất là khu vực biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, nơi còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao gấp 2-3 lần mức bình quân cả nước2. Trong khi đó, đây lại là những địa bàn có vị trí chiến lược về quốc phòng – an ninh. Việc kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với củng cố quốc phòng ở các khu vực này vì thế càng có ý nghĩa quan trọng, không chỉ nhằm nâng cao đời sống nhân dân mà còn để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Tình hình đó, đặt ra những đòi hỏi mới về phối hợp, lồng ghép các mục tiêu quốc phòng ngay trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội ở các ngành, các vùng và từng địa phương.
Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Đảng xác định: “Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế – xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng – an ninh”3. Đường lối này thể hiện rõ sự thống nhất giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn cho thấy, bất kỳ sự phát triển kinh tế nào nếu tách rời hoặc không gắn kết với bảo đảm quốc phòng – an ninh đều tiềm ẩn rủi ro, nhất là trong bối cảnh mới hiện nay.
2. Một số yêu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam trong bối cảnh mới
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng trong kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam hiện nay.
Đây là một trong những yêu cầu cơ bản, là vấn đề mang tính bất biến có ý nghĩa quyết định kết quả kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam. Bởi lẽ, hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn diễn ra đồng thời, gắn bó mật thiết, không thể tách rời. Nếu không có sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, xuyên suốt của Đảng thì rất dễ xảy ra tình trạng thiên lệch, hoặc chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà xem nhẹ nhiệm vụ quốc phòng hoặc ngược lại, quá nhấn mạnh đến quốc phòng mà không khai thác, phát huy tiềm năng kinh tế.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định rõ: “Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng – an ninh,…”4. Đường lối đó phản ánh sự nhất quán trong tư duy chiến lược: phát triển kinh tế là để nâng cao tiềm lực quốc gia, đồng thời quốc phòng – an ninh vững mạnh lại là điều kiện bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển kinh tế. Từ đó, có thể thấy vai trò lãnh đạo của Đảng chính là “sợi chỉ đỏ” định hướng, điều phối và bảo đảm tính thống nhất chiến lược giữa hai lĩnh vực. Thể hiện sự kế thừa từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và những bài học lịch sử nhân loại.
Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho việc kết hợp kinh tế với quốc phòng đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các yếu tố thị trường được vận hành theo quy luật khách quan, song nếu không có sự định hướng của Đảng, sự quản lý điều hành của nhà nước thì rất dễ dẫn đến tình trạng phát triển lệch lạc, đặt lợi ích kinh tế thuần túy lên trên lợi ích chiến lược của quốc gia – dân tộc. Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng chính là cơ chế thống nhất trong quản lý, điều hành đất nước. Việt Nam là quốc gia có vị trí địa – chính trị đặc biệt, luôn chịu sự chi phối của những biến động quốc tế phức tạp. Nếu thiếu sự lãnh đạo tập trung, nhất quán, sự kết hợp giữa phát triển kinh tế và quốc phòng sẽ dễ rơi vào tình trạng rời rạc, manh mún, thậm chí mâu thuẫn giữa lợi ích ngắn hạn và lợi ích lâu dài. Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho các mục tiêu kinh tế – quốc phòng không tách rời, không chồng chéo mà được đặt trong một chiến lược tổng thể.
Hai là, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế gắn với xây dựng tiềm lực quốc phòng hiện đại.
Phát triển kinh tế và xây dựng quốc phòng là hai lĩnh vực riêng biệt nhưng có quan hệ biện chứng, bổ sung cho nhau. Kinh tế là nền tảng vật chất của quốc phòng, còn quốc phòng là điều kiện để kinh tế phát triển bền vững trong môi trường ổn định, an toàn. Bối cảnh hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ, sự nổi lên của các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống, đòi hỏi việc gắn kết kinh tế với quốc phòng phải theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững.
Kinh tế là nền tảng vật chất của quốc phòng. Chỉ có một nền kinh tế phát triển, hiện đại, bền vững mới tạo ra tiềm lực đủ mạnh để trang bị cho quốc phòng những nguồn lực cần thiết. Sức mạnh quân sự không thể tách rời sức mạnh kinh tế. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, mỗi bước tiến lớn về kinh tế đều là tiền đề để củng cố quốc phòng. Ngược lại, một nền quốc phòng vững mạnh sẽ tạo điều kiện ổn định chính trị, xã hội, là “lá chắn” để kinh tế phát triển lâu dài. Do đo, việc kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng phải được thể hiện ngay trong quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, từng vùng, từng địa phương. Các dự án kinh tế trọng điểm, đặc biệt là các công trình hạ tầng như giao thông, năng lượng, viễn thông, cảng biển, sân bay… đều phải thiết kế theo hướng “kép”, vừa phục vụ phát triển dân sinh, vừa có thể huy động cho quốc phòng khi cần thiết. Đây là bài học mà nhiều quốc gia phát triển đã thành công trong việc gắn kết công nghiệp dân sự với công nghiệp quốc phòng theo mô hình công nghệ lưỡng dụng.
Cần xây dựng và phát triển mạnh mẽ công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, vừa đóng góp cho kinh tế dân sự. Ngành công nghiệp quốc phòng không chỉ sản xuất vũ khí, trang thiết bị, mà còn có thể phát triển các sản phẩm công nghệ cao, phục vụ cả dân sinh, từ đó tạo động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây chính là hướng đi để gắn kết tiềm lực kinh tế với tiềm lực quốc phòng một cách thực chất.
Cần coi trọng phát triển các khu kinh tế – quốc phòng, nhất là tại vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đây là mô hình vừa giúp xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế – xã hội cho người dân địa phương, vừa góp phần giữ vững chủ quyền lãnh thổ, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc. Thực tiễn cho thấy, các khu kinh tế – quốc phòng không chỉ đem lại lợi ích trực tiếp cho dân cư, mà còn tạo ra “pháo đài” kinh tế – quốc phòng ở những địa bàn chiến lược.
Mặt khác, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, bộ, ngành và địa phương trong thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng. Đây không phải là trách nhiệm riêng của quân đội hay của từng ngành kinh tế mà là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị. Mỗi kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội đều phải tính toán đến yếu tố quốc phòng – an ninh và ngược lại, các chiến lược quốc phòng phải dựa trên cơ sở tiềm lực kinh tế. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa còn đòi hỏi Việt Nam phải biết tận dụng thành tựu khoa học – công nghệ của thế giới, đồng thời bảo đảm tự chủ trong các lĩnh vực then chốt. Hội nhập quốc tế sâu rộng mang lại cơ hội tiếp cận công nghệ, vốn, thị trường, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bị lệ thuộc, bị chi phối. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải phát triển nội lực, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, qua đó củng cố sức mạnh quốc phòng một cách bền vững.
Ba là, phát triển kinh tế gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.
Đây là yêu cầu có ý nghĩa chiến lược, là sự vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quốc phòng toàn dân của Đảng ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Theo đó, cần nhận thức rõ rằng thế trận quốc phòng toàn dân không chỉ giới hạn ở phạm vi quân sự mà là sự huy động tổng hợp các nguồn lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của toàn dân tộc để bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, kinh tế là trụ cột quan trọng, vừa cung cấp tiềm lực vật chất cho quốc phòng, vừa tạo không gian, cơ sở hạ tầng cho triển khai thế trận quốc phòng toàn dân được củng cố vững chắc.
Quá trình xây dựng hạ tầng kinh tế – xã hội phải luôn tính đến yêu cầu quốc phòng. Các tuyến đường cao tốc, cảng biển, sân bay, hệ thống năng lượng, viễn thông, công nghệ số… đều cần thiết kế theo hướng “lưỡng dụng” để vừa phục vụ đời sống dân sinh và phát triển kinh tế vừa có thể nhanh chóng huy động cho nhiệm vụ quốc phòng – an ninh trong tình huống khẩn cấp. Chính sự lưỡng dụng này bảo đảm cho thế trận quốc phòng toàn dân có độ sâu, độ rộng và tính cơ động cao.
Phát triển kinh tế gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải chú trọng các khu vực chiến lược, đặc biệt là vùng biên giới, hải đảo. Đây là những địa bàn vừa có ý nghĩa kinh tế quan trọng, vừa là tuyến đầu bảo vệ Tổ quốc. Việc xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa không chỉ giúp người dân ổn định cuộc sống, giảm nghèo, mà còn góp phần hình thành các “pháo đài” kinh tế – quốc phòng nơi biên cương, hải đảo. Qua đó, vừa phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, vừa trực tiếp củng cố thế trận quốc phòng toàn dân trên thực địa. Mặt khác, trong điều kiện mới đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân. Kinh tế phát triển đồng nghĩa với xã hội vận động phức tạp hơn, các nguy cơ an ninh phi truyền thống ngày càng rõ nét. Vì vậy, phát triển kinh tế phải gắn với nâng cao năng lực quản trị xã hội, ứng phó thách thức an ninh phi truyền thống, coi đây là một thành phần hữu cơ của thế trận quốc phòng toàn dân trong thời đại mới.
Cần phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân tham gia thực hiện các nhiệm vụ này. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nhân dân vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là lực lượng trực tiếp tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thế trận quốc phòng toàn dân bền vững, cần khơi dậy lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm, tinh thần cảnh giác cách mạng của Nhân dân trong quá trình lao động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt xã hội. Đây chính là nền tảng tinh thần – xã hội để kinh tế và quốc phòng kết nối một cách bền chặt.
Bốn là, chủ động ứng phó với thách thức an ninh phi truyền thống trong kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, an ninh phi truyền thống đã trở thành một trong những thách thức lớn đối với mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Các nguy cơ như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, khủng bố, tội phạm mạng, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước… đang tác động trực tiếp đến đời sống nhân dân, sự phát triển kinh tế và sự ổn định xã hội. Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải chủ động, toàn diện và linh hoạt trong ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, coi đó là một phần cấu thành quan trọng của sự phát triển bền vững. Do vậy, yêu cầu quan trọng hàng đầu là nhận thức đầy đủ và thống nhất về an ninh phi truyền thống. Đây không còn là những nguy cơ thứ yếu mà đã trở thành những yếu tố có sức tàn phá không kém gì các mối đe dọa an ninh truyền thống. Đại dịch Covid-19 là minh chứng rõ ràng: chỉ trong thời gian ngắn đã làm tê liệt nhiều nền kinh tế, gây áp lực lớn lên hệ thống y tế, tác động sâu sắc đến quốc phòng – an ninh.
Theo đó, cần quán triệt trong toàn xã hội, từ trung ương đến cơ sở, bảo đảm an ninh phi truyền thống là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài. Cùng với đó, cần xây dựng năng lực dự báo, cảnh báo sớm và quản trị rủi ro trước những diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường để không bị động, bất ngờ, gây tổn thất nặng nề cho cả kinh tế và quốc phòng. Cần đầu tư phát triển các trung tâm nghiên cứu, hệ thống dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo để giám sát, phân tích và dự báo sớm nguy cơ thiên tai, dịch bệnh, tấn công mạng, khủng hoảng năng lượng; tăng cường năng lực quản lý nhà nước và thể chế pháp luật về ứng phó an ninh phi truyền thống; nâng cao năng lực khoa học – công nghệ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đồng thời, cần phát huy vai trò của toàn xã hội và tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng chống dịch bệnh, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, an ninh mạng; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người dân trong bảo vệ môi trường, sử dụng năng lượng tiết kiệm, phòng chống tội phạm công nghệ cao… để biến từng cá nhân thành “lá chắn” trước các nguy cơ phi truyền thống. Phải xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, liên ngành, liên cấp trong ứng phó với an ninh phi truyền thống nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị và toàn dân.
Năm là, kết hợp kinh tế với quốc phòng trong gắn kết nguồn lực quốc gia với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh mới hiện nay, với những tác động đa chiều thì việc kết hợp nguồn lực quốc gia với sức mạnh thời đại (bao gồm xu thế hợp tác, liên kết toàn cầu, thành tựu khoa học – công nghệ, phong trào tiến bộ, tinh thần đoàn kết quốc tế vì hòa bình, dân chủ và phát triển) trở thành một yêu cầu có ý nghĩa chiến lược, bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam. Đây là sự kết hợp giữa nội lực dân tộc với các yếu tố tiến bộ, tích cực của thời đại nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp, vừa phát triển kinh tế, vừa củng cố quốc phòng – an ninh, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Đó chính là sự kế thừa và phát triển bài học “dựng nước đi đôi với giữ nước” của dân tộc phù hợp với tình hình hiện nay.
Do vậy, cần khơi dậy và phát huy tối đa sức mạnh nội sinh, bao gồm truyền thống lịch sử – văn hóa, tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, đoàn kết dân tộc, cùng với tiềm năng to lớn về kinh tế, khoa học – công nghệ, con người và thiên nhiên. Trong điều kiện mới, nguồn lực quốc gia không chỉ giới hạn ở tài nguyên, vốn hay lao động mà còn bao gồm cả trí tuệ, tri thức khoa học và năng lực sáng tạo của người Việt Nam. Đây là nền tảng để đất nước hội nhập thành công, tiếp thu tinh hoa nhân loại mà không đánh mất bản sắc, không lệ thuộc vào bên ngoài. Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng phải gắn liền với lợi ích thiết thân của Nhân dân, khơi dậy khát vọng phồn vinh, ý chí tự lực, tự cường dân tộc.
Mặt khác, cần tranh thủ tối đa sức mạnh của thời đại. Sức mạnh ấy được thể hiện ở những thành tựu vượt bậc của khoa học – công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; ở xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển; ở các cơ chế hợp tác khu vực và toàn cầu; ở nguồn vốn, tri thức, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ các quốc gia, tổ chức quốc tế. Đẩy mạnh mở rộng liên kết quốc tế trong các lĩnh vực an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh toàn cầu, an ninh mạng, an ninh năng lượng… chính là sự cụ thể hóa tinh thần kết hợp kinh tế với quốc phòng trên bình diện toàn cầu. Đó là những yếu tố có thể bổ sung, hỗ trợ cho quá trình phát triển đất nước nếu được khai thác đúng hướng và trên cơ sở độc lập, tự chủ.
Kết hợp hài hòa giữa nguồn lực trong nước và nguồn lực quốc tế; không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, khả năng làm chủ của quốc gia; gắn kết sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên nền tảng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa để vừa tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của thế giới, vừa chú trọng phát triển nội lực, không dựa dẫm, lệ thuộc. Đây là con đường để biến sức mạnh thời đại thành nguồn lực bổ sung cho sức mạnh dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp mới, đưa đất nước phát triển hùng cường, thịnh vượng để tự tạo ra sức mạnh bảo vệ Tổ quốc từ bên trong,…
3. Kết luận
Trong bối cảnh mới hiện nay, việc kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng ở Việt Nam vừa là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa là nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa sống còn. Kinh tế và quốc phòng có mối quan hệ hữu cơ, bổ trợ lẫn nhau: một nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển bền vững là cơ sở để tăng cường tiềm lực quốc phòng; ngược lại, một nền quốc phòng vững mạnh là “lá chắn” bảo vệ thành quả kinh tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển.
Trước những biến động nhanh chóng của tình hình quốc tế, những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước cũng như yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, việc nhận thức đúng bối cảnh mới và xác định rõ các yêu cầu, giải pháp kết hợp hai lĩnh vực trọng yếu này là hết sức cần thiết. Đây không chỉ là định hướng chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước mà còn là điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực, nâng cao vị thế quốc tế, xây dựng thành công một đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước trên con đường hội nhập và phát triển bền vững.
Chú thích:
1. Cục Thống kê – Bộ Tài Chính (2025). Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý IV và cả năm 2024.
2. Ủy ban Dân tộc (2023). Báo cáo về phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 48, 216 – 217.
5. Hội nhập và hợp tác quốc tế về quốc phòng của Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1087802/hop-tac-va-hoi-nhap-quoc-te-ve-quoc-phong-cua-viet-nam-trong-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc.aspx
6. Bộ Quốc phòng (2019). Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.