ThS. Cao Kỳ Nam
Trường Đại học Quy Nhơn
(Quanlynhanuoc.vn) – Phong trào Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII để lại hệ thống di tích lịch sử – văn hóa phân bố ở cả thượng đạo và hạ đạo thuộc tỉnh Gia Lai ngày nay, phản ánh rõ quy mô và giá trị đặc biệt của phong trào. Liên kết cụm góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch, gia tăng giá trị kinh tế – xã hội và lan tỏa giá trị lịch sử – văn hóa Tây Sơn. Bài viết đề xuất giải pháp về quy hoạch, hạ tầng, sản phẩm, truyền thông và nhân lực nhằm phát huy bền vững giá trị di sản, khẳng định thương hiệu du lịch Gia Lai trong bối cảnh hiện nay.
Từ khóa: Tây Sơn thượng đạo; Tây Sơn hạ đạo; di tích lịch sử – văn hóa; liên kết cụm; du lịch văn hóa – lịch sử; Gia Lai.
1. Đặt vấn đề
Phong trào khởi nghĩa Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc, gắn liền với hệ thống di tích lịch sử – văn hóa phân bố ở cả vùng thượng đạo và hạ đạo. Hai không gian này tạo thành một chỉnh thể lịch sử – văn hóa thống nhất, vừa bổ sung, vừa kế thừa, phản ánh đầy đủ quy mô, tầm vóc và giá trị của phong trào Tây Sơn.
Theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, tỉnh Gia Lai mới hình thành trên cơ sở hợp nhất tỉnh Gia Lai và tỉnh Bình Định. Gắn với phát triển du lịch hiện nay, việc liên kết các di tích lịch sử – văn hóa Tây Sơn thượng đạo – hạ đạo có ý nghĩa quan trọng, không chỉ ở khía cạnh bảo tồn và phát huy giá trị di tích mà còn góp phần hình thành sản phẩm du lịch đặc thù, nâng cao sức cạnh tranh của du lịch địa phương. Đây là xu thế tất yếu, phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững; đồng thời, đáp ứng mục tiêu lan tỏa giá trị lịch sử – văn hóa trong thời kỳ hội nhập.
2. Liên kết cụm di tích lịch sử – văn hóa
Trong nghiên cứu phát triển du lịch, “liên kết vùng” được hiểu là sự hợp tác giữa nhiều địa phương nhằm khai thác lợi thế chung và tạo dựng sản phẩm du lịch liên tỉnh. Liên kết vùng là việc hợp tác giữa các chủ thể nhằm biến tiềm năng và lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh của vùng thông qua việc hình thành một không gian kinh tế chung theo hướng tập trung nguồn lực nhằm tạo ra quy mô và chuyên môn hóa sản xuất trong vùng1.
Ở cấp độ hẹp hơn, có thể tiếp cận khái niệm “liên kết cụm” là quá trình kết nối và phối hợp giữa các cụm di tích, cụm danh thắng hoặc cụm không gian văn hóa – lịch sử có mối quan hệ mật thiết về địa lý và giá trị di tích. Mục tiêu của liên kết cụm là hình thành một mạng lưới di tích thống nhất, tạo thành tuyến du lịch liên hoàn, gia tăng trải nghiệm cho du khách và nâng cao hiệu quả khai thác bền vững. Nếu liên kết điểm chủ yếu diễn ra trong nội bộ một cụm, liên kết cụm nhấn mạnh sự phối hợp giữa nhiều cụm để tạo ra một chỉnh thể toàn diện và có sức lan tỏa rộng hơn.
Luật Di sản văn hóa năm 2024 quy định: “Di tích lịch sử – văn hóa là công trình kiến trúc, nghệ thuật, cụm công trình xây dựng, địa điểm, di chỉ khảo cổ hoặc cấu trúc có tính chất khảo cổ học; di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, cụm công trình, địa điểm, di chỉ hoặc cấu trúc đó, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”2. Liên kết cụm di tích lịch sử – văn hóa được hiểu là sự phối hợp giữa các cụm di tích lịch sử – văn hóa nhằm tái hiện đầy đủ không gian lịch sử, đồng thời xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù, hiệu quả.
Di tích lịch sử – văn hóa mang ý nghĩa hiện thực và biểu tượng, là yếu tố lưu giữ và phản ánh lịch sử của địa phương và đất nước3.Việc liên kết cụm trở thành xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên và gia tăng sức cạnh tranh, thể hiện ở các khía cạnh sau:
Một là, tối ưu hóa và đa dạng hóa sản phẩm du lịch. Liên kết cụm di tích cho phép kết nối các điểm rời rạc thành một tuyến du lịch thống nhất, tạo nên chuỗi trải nghiệm liên tục và hấp dẫn hơn. Thay vì chỉ dừng lại ở tham quan truyền thống, tuyến du lịch có thể kết hợp nhiều loại hình, như: văn hóa, sinh thái, cộng đồng và trải nghiệm. Sự đa dạng này kéo dài thời gian lưu trú, tăng mức chi tiêu của du khách và nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên. Nhờ đó, hoạt động liên kết cụm trở thành công cụ quan trọng để nâng cao tính cạnh tranh và sức hút của du lịch địa phương.
Hai là, gia tăng giá trị kinh tế – xã hội. Việc hình thành tuyến du lịch liên cụm khuyến khích du khách lưu lại lâu hơn; qua đó, làm tăng doanh thu từ dịch vụ lưu trú, vận tải, ẩm thực và mua sắm. Nguồn thu tăng thêm góp phần tạo việc làm, nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ hỗ trợ. Đồng thời, hoạt động du lịch cũng kích thích đầu tư hạ tầng, mở rộng cơ hội khởi nghiệp cho cộng đồng. Như vậy, liên kết cụm không chỉ mang lại lợi ích kinh tế trực tiếp mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa về mặt xã hội.
Ba là, bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Việc phân bổ hợp lý dòng khách giữa các cụm giúp giảm áp lực lên một số điểm quá tải; đồng thời, tạo cơ hội để các di tích ít được biết đến thu hút thêm du khách. Sự phối hợp liên cụm cũng tạo điều kiện chia sẻ nguồn lực, kinh nghiệm trong trùng tu, tôn tạo và quản lý di tích. Ngoài ra, các hoạt động giáo dục lịch sử – văn hóa có thể được tổ chức trên toàn tuyến, góp phần nâng cao ý thức cộng đồng trong công tác bảo tồn. Nhờ đó, mục tiêu bảo tồn di sản có thể được kết hợp hài hòa với phát triển du lịch bền vững.
Bốn là, nâng cao thương hiệu du lịch địa phương. Một thương hiệu du lịch chung gắn với “Không gian di tích” sẽ có sức hút quảng bá mạnh mẽ hơn so với việc quảng bá riêng lẻ từng cụm. Liên kết cụm tạo dựng hình ảnh thống nhất, giúp định vị rõ ràng hơn trên bản đồ du lịch trong nước và quốc tế. Thông qua chiến dịch truyền thông đồng bộ, mức độ nhận diện và uy tín thương hiệu du lịch sẽ được nâng cao. Đây là cơ sở để khẳng định vị thế điểm đến văn hóa – lịch sử đặc thù trong tiến trình hội nhập.
3. Thực trạng liên kết cụm di tích Tây Sơn trong phát triển du lịch
Hiện tại, Gia Lai có tổng diện tích tự nhiên là 21.576,53 km², quy mô dân số đạt 3.583.693 người4, hiện có 312 di tích lịch sử – văn hóa, trong đó có 26 di tích, cụm di tích gắn với phong trào Tây Sơn đã được xếp hạng5,6. Di tích lịch sử – văn hóa gắn với phong trào Tây Sơn tại tỉnh chủ yếu phân bố ở khu vực Tây Sơn thượng đạo và Tây Sơn hạ đạo.
Tây Sơn thượng đạo là vùng đất nằm ở phía Tây đèo An Khê của tỉnh Gia Lai (trước đây thuộc bốn huyện, thị xã là An Khê, Kbang, Đăkpơ, Kông Chro). Đây là vùng giàu tiềm năng du lịch lịch sử – văn hóa, gắn liền với nhiều sự kiện quan trọng của phong trào Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII. Hiện nay, Tây Sơn thượng đạo có 11 di tích, cụm di tích lịch sử – văn hóa với hơn 33 điểm di tích gắn với phong trào Tây Sơn đã được xếp loại7. Một số di tích tiêu biểu, như: Lũy An Khê, An Khê trường, An Khê đình và Gò chợ; Miếu Xà, Cây Ké phất cờ, Cây Cầy nổi trống; Hòn Bình, Hòn Nhược, Hòn Tào, Gò Kho, xóm Ké; Núi Hoàng Đế; Hòn đá Ông Nhạc; Vườn Mít và cánh đồng Cô Hầu… cùng nhiều dấu tích khác phản ánh sinh động đời sống quân sự, kinh tế và văn hóa của nghĩa quân Tây Sơn. Trong lịch sử, Tây Sơn thượng đạo đóng vai trò là căn cứ chiến lược, nơi tập hợp lực lượng, tích trữ lương thảo và luyện quân, chuẩn bị cho những chiến dịch lớn của nghĩa quân. Vị trí địa lý của khu vực vừa là “cửa ngõ” nối Tây Nguyên với duyên hải miền Trung, vừa là tuyến phòng thủ quan trọng bảo vệ hậu phương của phong trào khởi nghĩa.
Tây Sơn hạ đạo là vùng đồng bằng nằm ở phía dưới đèo An Khê (trước đây thuộc tỉnh Bình Địnhcũ). Đây là quê hương của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, trung tâm lãnh đạo phong trào Tây Sơn. Hiện tại, Tây Sơn hạ đạo có 15 di tích, cụm di tích lịch sử – văn hóa gắn với phong trào Tây Sơn đã được xếp loại8. Một số di tích tiêu biểu, như: Khu đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt; Thành Hoàng Đế; Từ đường Bùi Thị Xuân, Đền thờ Bùi Thị Xuân; Từ đường Võ Văn Dũng; Đền thờ Võ Văn Dũng; địa điểm Gò Lăng – Quê mẹ của các thủ lĩnh nghĩa quân Tây Sơn; Gò Đá Đen… Với vị trí địa lý thuận lợi, Tây Sơn hạ đạo từng là trung tâm chính trị, quân sự của phong trào, nơi phát lệnh, điều phối các chiến dịch lớn; đồng thời, là không gian văn hóa tiêu biểu kết tinh những giá trị tinh thần của phong trào Tây Sơn.
Với vị thế đặc biệt của tỉnh, sự liên kết giữa cụm di tích lịch sử – văn hóa Tây Sơn thượng đạo và Tây Sơn hạ đạo không chỉ góp phần tái hiện đầy đủ tuyến du lịch lịch sử – văn hóa Tây Sơn mà còn mở ra cơ hội hình thành sản phẩm du lịch liên cụm độc đáo. Trong những năm gần đây, tỉnh Gia Lai đã bước đầu khai thác giá trị du lịch từ cụm di tích Tây Sơn thượng đạo, kết hợp với các loại hình du lịch văn hóa – sinh thái khác. Năm 2024, có 10.540.000 lượt du khách đến Gia Lai, trong đó có 10.424.150 lượt khách nội địa và 115.850 lượt khách quốc tế, doanh thu ước tính 26.390 tỷ đồng; có hơn 170.000 lượt khách đến Bảo tàng Quang Trung, Khu Di tích quốc gia đặc biệt Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt; Đền thờ Đô đốc Bùi Thị Xuân; Đền thờ Đại tư đồ Võ Văn Dũng; Khu di tích Đài Kính Thiên và hơn 56.000 lượt khách đến các điểm của Tây Sơn thượng đạo9,10. Nhìn tổng thể, một số kết quả nổi bật có thể ghi nhận:
Về phương diện hạ tầng di tích: một số địa điểm tiêu biểu, như: Thành Hoàng Đế, Đài Kính Thiên, Lăng mộ Hiển tổ khảo Tây Sơn Tam Kiệt, Bảo tàng Quang Trung đã được đầu tư trùng tu, tôn tạo và lắp đặt hệ thống bảng chỉ dẫn, thuyết minh. Những cải thiện này không chỉ đáp ứng nhu cầu tham quan mà còn nâng cao tính chuyên nghiệp, tạo nền tảng cho việc khai thác bền vững giá trị di tích.
Hoạt động quảng bá: hoạt động kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa được tổ chức thường niên, thu hút đông đảo du khách. Các tour “về nguồn” được tăng cường tổ chức, triển khai. Đây là dịp vừa tạo hiệu ứng truyền thông tích cực, vừa nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị lịch sử – văn hóa của cụm di tích Tây Sơn, qua đó góp phần khẳng định thương hiệu du lịch địa phương.
Sản phẩm du lịch: thời gian qua đã hình thành một số tour kết hợp như tuyến “An Khê – Tây Sơn – Quy Nhơn”, cho phép du khách trải nghiệm cả không gian thượng đạo và hạ đạo. Các tour này bước đầu tạo ra tuyến du lịch liên cụm, góp phần đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao sức hấp dẫn và mở rộng khả năng phục vụ nhiều nhóm du khách.
Nhận thức cộng đồng: người dân tại các cụm di tích ngày càng thể hiện ý thức và trách nhiệm trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích. Có một số hộ gia đình tham gia du lịch cộng đồng với các dịch vụ lưu trú, ẩm thực, trình diễn nghệ thuật dân gian, vừa góp phần đa dạng hóa sản phẩm, vừa tạo sinh kế bền vững, gắn kết lợi ích của cộng đồng với mục tiêu phát triển du lịch di tích.
Tuy nhiên, trong liên kết di tích Tây Sơn thượng đạo – hạ đạo, hướng đến phát triển du lịch tỉnh Gia Lai vẫn còn tồn tại, hạn chế, như:
Một là, trong bối cảnh mới, mối liên kết giữa cụm di tích Tây Sơn thượng đạo và hạ đạo còn lỏng lẻo, thiếu cơ chế phối hợp thống nhất. Trước đây, hai cụm thuộc hai tỉnh khác nhau nên công tác quản lý, khai thác, bảo tồn và phát huy giá trị di tích chưa hiệu quả. Hiện nay đã hợp nhất thành một tỉnh, hoạt động khai thác vẫn phân tán theo từng cụm, chưa tạo được sự gắn kết tổng thể để hình thành chuỗi giá trị du lịch bền vững và thương hiệu chung cho “Không gian di tích Tây Sơn”.
Hai là, hệ thống hạ tầng giao thông phục vụ cho việc kết nối liên cụm còn hạn chế. Các tuyến đường đến nhiều xã có di tích gắn với phong trào Tây Sơn vẫn chưa được nâng cấp đồng bộ, nhiều đoạn xuống cấp gây khó khăn cho việc di chuyển, tổ chức tour tuyến, làm giảm chất lượng trải nghiệm của du khách và sức hấp dẫn của sản phẩm du lịch di tích.
Ba là, sản phẩm du lịch gắn với cụm di tích Tây Sơn còn đơn điệu, chủ yếu ở hình thức tham quan, nghe thuyết minh. Chưa có nhiều chương trình trải nghiệm tương tác giúp du khách khám phá sâu đời sống sinh hoạt, văn hóa dân gian và tinh thần thượng võ của nghĩa quân Tây Sơn. Điều này khiến giá trị di tích chưa được khai thác trọn vẹn và chưa tạo được sự khác biệt so với các tuyến du lịch văn hóa khác.
Bốn là, công tác quảng bá còn hạn chế, nhất là đối với cụm di tích Tây Sơn thượng đạo. Thông tin về các di tích chưa được truyền thông rộng rãi trên các kênh quốc gia và quốc tế, mức độ nhận diện còn thấp. Hoạt động xúc tiến quảng bá vẫn thiên về quy mô địa phương, chưa có sự đầu tư mạnh mẽ về nội dung, hình thức và ứng dụng công nghệ số.
Năm là, trong bối cảnh tỉnh Gia Lai vừa được hợp nhất, nguồn nhân lực du lịch vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển mới. Đội ngũ hướng dẫn viên am hiểu sâu về lịch sử và văn hóa Tây Sơn còn hạn chế, trong khi kỹ năng thiết kế tour, tổ chức tuyến liên cụm và triển khai các hoạt động trải nghiệm chưa được chú trọng đúng mức.
Nguyên nhân của những hạn chế trên chủ yếu do thiếu quy hoạch tổng thể mang tính chiến lược dài hạn cho phát triển du lịch di tích lịch sử – văn hóa Tây Sơn. Nguồn vốn đầu tư còn phân tán, chưa bảo đảm kết nối hạ tầng liên cụm. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý, chính quyền địa phương và doanh nghiệp lữ hành còn thiếu chặt chẽ; vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp trong thiết kế sản phẩm, tổ chức tour liên cụm và tạo chuỗi giá trị du lịch vẫn chưa được phát huy đúng mức.
4. Một số giải pháp
Thứ nhất, xây dựng quy hoạch liên cụm về phát triển du lịch di tích Tây Sơn theo hướng tổng thể, chiến lược và bền vững. Quy hoạch này phải bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa các xã, phường có di tích Tây Sơn trong một không gian thống nhất, khắc phục tình trạng khai thác rời rạc. Nội dung quy hoạch cần xác định rõ tuyến – cụm du lịch, hệ thống sản phẩm đặc thù; đồng thời, gắn với mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Việc lập quy hoạch phải dựa trên nghiên cứu toàn diện giá trị lịch sử – văn hóa của cả thượng đạo và hạ đạo, tích hợp với quy hoạch phát triển du lịch vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên để tạo sự liên kết, đồng bộ cao.
Thứ hai, tập trung nâng cấp và đồng bộ hệ thống hạ tầng giao thông kết nối hai cụm di tích Tây Sơn. Thực tế cho thấy, hạ tầng xuống cấp, thiếu đồng bộ là nguyên nhân trực tiếp gây khó khăn cho việc di chuyển, ảnh hưởng đến trải nghiệm của du khách. Vì vậy, cần ưu tiên nâng cấp các tuyến trọng điểm từ khu vực phía Tây đến những địa bàn có di tích; đồng thời, bố trí biển chỉ dẫn, bãi đỗ xe, điểm dừng chân tại các di tích chính. Song song với đó, phát triển hạ tầng số, như: bản đồ điện tử, ứng dụng thuyết minh tự động để hỗ trợ du khách khám phá tuyến liên cụm thuận lợi và hiện đại.
Thứ ba, đa dạng hóa sản phẩm du lịch gắn với trải nghiệm liên cụm nhằm khắc phục sự đơn điệu. Ngoài tham quan truyền thống, cần phát triển các chương trình trải nghiệm, như: tái hiện lễ hội Tây Sơn, biểu diễn võ cổ truyền, chế biến ẩm thực dân dã, hành trình “theo dấu nghĩa quân Tây Sơn” trên cả tuyến thượng đạo và hạ đạo. Đồng thời, chú trọng phát triển du lịch đêm, du lịch cộng đồng, du lịch học đường để mở rộng đối tượng du khách và gia tăng sức hấp dẫn.
Thứ tư, tăng cường quảng bá và xây dựng thương hiệu du lịch chung cho “Không gian di tích Tây Sơn”, thay vì quảng bá riêng lẻ từng cụm. Tỉnh Gia Lai cần tổ chức các chương trình truyền thông thống nhất, triển khai chiến dịch quảng bá đa nền tảng, kết hợp với hội chợ, famtrip cho doanh nghiệp lữ hành và báo chí, qua đó nâng cao nhận diện thương hiệu trên cả thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao. Cần tổ chức đào tạo chuyên sâu về lịch sử – văn hóa Tây Sơn cho đội ngũ hướng dẫn viên, nhân viên phục vụ và cộng đồng địa phương. Đồng thời, khuyến khích sự tham gia của nhà nghiên cứu, chuyên gia võ cổ truyền, nghệ nhân dân gian trong thuyết minh và dẫn dắt hoạt động trải nghiệm, tạo sự khác biệt và nâng cao giá trị sản phẩm.
Thứ sáu, thiết lập cơ chế phối hợp và huy động nguồn lực xã hội hóa cho liên kết cụm di tích Tây Sơn. Thay vì quản lý phân tán, cần thành lập ban điều phối chung có nhiệm vụ kết nối, giám sát và thúc đẩy thực hiện các chương trình phát triển du lịch di tích Tây Sơn. Đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư tham gia đầu tư, khai thác, bảo tồn và quảng bá di tích, tạo nguồn lực bền vững cho phát triển du lịch Gia Lai.
5. Kết luận
Liên kết cụm trong phát triển du lịch di tích là xu thế tất yếu và là phương thức tiếp cận phù hợp nhằm khai thác hiệu quả giá trị lịch sử – văn hóa. Đối với tỉnh Gia Lai, cụm di tích lịch sử – văn hóa Tây Sơn thượng đạo và Tây Sơn hạ đạo có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ về không gian và lịch sử, tạo nên một chỉnh thể di tích có khả năng hình thành tuyến du lịch lịch sử – văn hóa.
Thực tiễn phát triển du lịch gắn với di tích Tây Sơn thời gian qua đã đạt được những kết quả bước đầu, song vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt ở phương diện hạ tầng, sản phẩm, hoạt động quảng bá và cơ chế phối hợp. Trong bối cảnh đó, việc triển khai đồng bộ các giải pháp từ xây dựng quy hoạch tổng thể, nâng cấp hạ tầng, đa dạng hóa sản phẩm, phát triển nguồn nhân lực đến hoàn thiện cơ chế phối hợp liên cụm là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm tính bền vững trong khai thác và phát huy giá trị di tích.
Chú thích:
1. Lê Anh Vũ, Nguyễn Văn Huân (2016). Một số vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng liên kết vùng ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Đổi mới, động lực và chính sách phát triển vùng – Lý thuyết, kinh nghiệm và hành động”. H. NXB. Thế giới, tr.29.
2. Quốc hội (2024). Luật Di sản văn hóa năm 2024.
3. Dương Văn Sáu (2017). Giáo trình di tích lịch sử – văn hóa và danh thắng Việt Nam. H. NXB Lao động.
4. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
5, 7. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2024). Quyết định số 15/QĐ-UBND ngày 15/01/2024 về việc phê duyệt danh mục kiểm kê di tích và dự kiến lập hồ sơ khoa học đề nghị xếp hạng di tích giai đoạn 2024 – 2029 trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
6, 8. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2024). Quyết định số 16/2024/QĐ-UBND ngày 24/5/2024 ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Bình Định.
9. Doanh thu du lịch của Bình Định chạm mốc kỷ lục. https://laodong.vn/du-lich/tin-tuc/doanh-thu-du-lich-cua-binh-dinh-cham-moc-ky-luc-1427076.html
10. Gia Lai: Nhiều sự kiện văn hóa-thể thao và du lịch nổi bật trong năm 2024. https://baogialai.com.vn/gia-lai-nhieu-su-kien-van-hoa-the-thao-va-du-lich-noi-bat-trong-nam-2024-post306191.html