Một số bất cập trong thực thi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư nhìn từ thực tiễn TP. Hồ Chí Minh

ThS. Nguyễn Phạm Quốc Ảnh
Công ty Luật TNHH Vũng Tàu

(Quanlynhanuoc.vn) – Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hoàn thiện thể chế huy động nguồn lực tư nhân vào đầu tư công ở Việt Nam. Tuy nhiên, sau hơn 4 năm triển khai đã bộc lộ nhiều bất cập. Bài viết góp phần làm rõ cơ sở lý luận pháp luật, chỉ ra các bất cập từ thực tiễn áp dụng tại TP. Hồ Chí Minh để kiến nghị hoàn thiện chính sách, bảo đảm tính minh bạch, hiệu quả và thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư phát triển bền vững vùng đô thị – công nghiệp trọng điểm phía Nam.

Từ khóa: Bất cập pháp lý, hợp tác công – tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020, TP. Hồ Chí Minh, thực thi pháp luật.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh phát triển kinh tế – xã hội hiện nay, việc huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển hạ tầng, dịch vụ công thông qua mô hình hợp tác công – tư (Public – Private Partnership, viết tắt là PPP) đã trở thành một xu thế tất yếu. Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 ra đời nhằm khắc phục tình trạng phân tán, thiếu thống nhất trong các quy định pháp luật trước đây, tạo hành lang pháp lý minh bạch, ổn định cho các nhà đầu tư tư nhân cùng Nhà nước thực hiện các dự án có ý nghĩa công cộng. Tuy nhiên, sau hơn bốn năm triển khai, quá trình thực thi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 tại TP. Hồ Chí Minh địa phương đi đầu cả nước về thu hút đầu tư và phát triển hạ tầng – vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc cần được nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện.

Tính cấp thiết của đề tài càng trở nên nổi bật trong bối cảnh TP. Hồ Chí Minh mở rộng không gian phát triển, tăng cường liên kết vùng với hai tỉnh Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu. Nhu cầu đầu tư vào các dự án giao thông liên vùng, xử lý môi trường, năng lượng tái tạo, y tế và giáo dục công lập ngày càng lớn, đòi hỏi cơ chế pháp lý PPP phải thực sự linh hoạt, khả thi và hấp dẫn nhà đầu tư.

Nghiên cứu này hướng đến việc chỉ ra những bất cập trong thực thi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 từ thực tiễn TP. Hồ Chí Minh, đồng thời đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách, góp phần hỗ trợ chính quyền Thành phố tháo gỡ khó khăn, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, thu hút đầu tư tư nhân, thúc đẩy phát triển bền vững khu vực đô thị – công nghiệp trọng điểm phía Nam.

2. Khung pháp lý và cơ sở lý luận về đầu tư theo phương thức đối tác công – tư

Trong giai đoạn vừa qua, Nhà nước đã từng bước tạo lập cơ sở pháp lý quan trọng cho việc triển khai các dự án đầu tư PPP. Nổi bật nhất là Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 được Quốc hội (khóa XIV) thông qua ngày 18/6/2020, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 lần đầu tiên thống nhất khung pháp lý điều chỉnh toàn diện hoạt động PPP, thay thế cho các quy định phân tán trước đây trong các nghị định của Chính phủ, như: Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 hay Nghị định số 63/2018/NĐ-CP ngày 04/5/2018.

Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 xác định rõ 5 lĩnh vực ưu tiên triển khai dự án PPP, gồm: hạ tầng giao thông vận tải; năng lượng; y tế; giáo dục và đào tạo; hạ tầng công nghệ thông tin (tại Điều 4). Việc giới hạn phạm vi này nhằm tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực thiết yếu, gắn với lợi ích công cộng và phát triển bền vững. Đồng thời, Luật cũng quy định cụ thể các loại hợp đồng PPP được phép áp dụng, như: BOT, BTO, BOO, BTL, BLT và O&M, qua đó tạo cơ sở cho việc linh hoạt lựa chọn mô hình đầu tư phù hợp với từng dự án.

Để cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020, đồng thời, làm rõ trình tự, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư (Chương IV), cơ chế chia sẻ rủi ro về doanh thu (Điều 82 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020; Điều 82-85 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP) và thẩm quyền phê duyệt, quản lý dự án PPP giữa các cấp chính quyền. Đặc biệt, quy định cơ chế “chia sẻ rủi ro doanh thu” giữa Nhà nước và nhà đầu tư theo tỷ lệ 50-50 trong trường hợp doanh thu thực tế chênh lệch đáng kể so với dự kiến, qua đó bảo đảm sự hài hòa lợi ích và ổn định chính sách.

Bên cạnh đó, Nghị định số 28/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 về cơ chế quản lý tài chính dự án PPP và Thông tư số 09/2021/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 35/2021/NĐ-CP cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn hóa quy trình tài chính, hồ sơ mời thầu, hợp đồng mẫu và quản lý rủi ro tài chính của dự án.

Ngoài khía cạnh pháp lý, PPP còn được xem là công cụ quản trị công hiện đại giúp Nhà nước chuyển từ vai trò “cung ứng trực tiếp” sang “điều tiết và giám sát hiệu quả đầu tư”, phù hợp với định hướng quản lý công mới (New Public Management). Điều này thể hiện bước chuyển quan trọng trong tư duy pháp lý. Nhà nước không đơn thuần là “bên cấp phép” mà là “đối tác chiến lược” cùng khu vực tư nhân chia sẻ lợi ích và trách nhiệm trong phát triển hạ tầng.

Có thể thấy, khung pháp lý về PPP hiện nay đã tương đối hoàn thiện về mặt hình thức, tạo cơ sở thống nhất cho hoạt động đầu tư công – tư. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai tại các đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh vẫn đặt ra yêu cầu tiếp tục điều chỉnh, cập nhật và hoàn thiện để phù hợp với điều kiện đặc thù, năng lực quản lý và mục tiêu phát triển bền vững trong giai đoạn mới.

3. Thực tiễn thực hiện Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư tại TP. Hồ Chí Minh

TP. Hồ Chí Minh là địa phương đi đầu trong việc triển khai các mô hình hợp tác công – tư từ rất sớm, đặc biệt trong các lĩnh vực hạ tầng giao thông, chiếu sáng, thoát nước và xử lý chất thải. Trước khi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 có hiệu lực, Thành phố đã thực hiện hàng trăm dự án theo hình thức BOT, BT, BOO góp phần quan trọng cải thiện kết cấu hạ tầng đô thị. Tuy nhiên, từ năm 2021 đến nay, khi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 chính thức có hiệu lực, số lượng dự án mới được triển khai theo phương thức này lại giảm đáng kể, cho thấy có những vướng mắc nhất định trong thực thi pháp luật.

Theo báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh, giai đoạn 2021 – 2024, Thành phố chỉ có một số ít dự án PPP được trình thẩm định, chủ yếu tập trung ở lĩnh vực xử lý nước thải, giao thông đô thị và y tế. Trong đó, các dự án quy mô lớn, như: tuyến đường Vành đai 3, tuyến metro số 2, nhà máy xử lý nước thải Nhiêu Lộc – Thị Nghè được xem là các mô hình PPP trọng điểm nhưng tiến độ triển khai vẫn chậm so với kế hoạch. Nguyên nhân chính là do quy trình thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư còn phức tạp, đặc biệt ở khâu xác định nguồn vốn Nhà nước tham gia và đánh giá khả năng hoàn vốn của nhà đầu tư.

Một số bất cập nổi bật được ghi nhận trong thực tế, bao gồm: quy định về quy mô vốn tối thiểu 200 tỷ đồng khiến nhiều dự án hạ tầng quy mô trung bình không đủ điều kiện thực hiện theo phương thức PPP; lĩnh vực đầu tư PPP bị giới hạn, chưa bao quát các nhu cầu cấp thiết, như: hạ tầng số, logistics đô thị hay năng lượng sạch; cơ chế chia sẻ rủi ro doanh thu giữa Nhà nước và nhà đầu tư chưa đủ linh hoạt, khó áp dụng trong bối cảnh biến động kinh tế; hướng dẫn về mẫu hợp đồng PPP còn thiếu cụ thể, dẫn đến mỗi dự án phải thương thảo lại từ đầu, kéo dài thời gian chuẩn bị.

Căn cứ báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố (năm 2022) thì thẩm quyền phê duyệt dự án nằm trên phạm vi từ 2 tỉnh trở lên là Thủ tướng Chính phủ (theo khoản 4 Điều 21 của Nghị định số 35/2021/NĐ-CP) nhưng theo khoản 3 Điều 13 Nghị định số 15/2021/NĐ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng, cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định dự án trên phạm vi từ 2 tỉnh trở lên sẽ là cục/vụ trực thuộc bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành.

Ngoài ra, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý dự án PPP tại Thành phố còn hạn chế, chưa được đào tạo chuyên sâu về pháp lý – tài chính; cơ chế phối hợp giữa các sở, ngành trong quá trình thẩm định còn chồng chéo. Bên cạnh đó, việc công khai thông tin về các dự án PPP chưa được thực hiện đầy đủ, làm giảm tính minh bạch và niềm tin của khu vực tư nhân.

Tuy vậy, TP. Hồ Chí Minh vẫn là địa phương có tiềm năng lớn trong thu hút đầu tư PPP, nhờ quy mô kinh tế, tốc độ đô thị hóa cao và nhu cầu phát triển hạ tầng đa lĩnh vực. Trong bối cảnh tăng cường liên kết vùng với Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu, việc tháo gỡ các vướng mắc pháp lý và cải thiện quy trình triển khai PPP sẽ giúp Thành phố phát huy vai trò đầu tàu, tạo động lực cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phát triển bền vững.

4. Một số bất cập trong thực thi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 từ thực tiễn TP. Hồ Chí Minh

Sau hơn bốn năm triển khai Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2021), nhiều địa phương trên cả nước, trong đó, TP. Hồ Chí Minh đã chủ động áp dụng khung pháp lý mới nhằm thu hút đầu tư tư nhân trong phát triển hạ tầng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy quá trình thực thi còn tồn tại nhiều vướng mắc, ảnh hưởng đến hiệu quả triển khai các dự án PPP.

4.1. Quy định về quy mô vốn tối thiểu và lĩnh vực đầu tư chưa phù hợp thực tiễn địa phương

Theo Điều 5 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020, tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP là 200 tỷ đồng, riêng tại địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn được giảm xuống 100 tỷ đồng. Quy định này tuy nhằm bảo đảm hiệu quả đầu tư và giảm phân tán nguồn lực nhưng lại chưa phù hợp với đặc thù của TP. Hồ Chí Minh nơi có nhiều dự án hạ tầng công cộng quy mô vừa và nhỏ, mang tính phục vụ cộng đồng (như chiếu sáng, thoát nước, xử lý rác thải, trường học, trạm y tế). Nhiều dự án có tổng mức đầu tư chỉ từ 50-150 tỷ đồng không thể triển khai theo hình thức PPP, buộc phải chuyển sang đầu tư công thuần túy, gây áp lực cho ngân sách thành phố.

Bên cạnh đó, Điều 4 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 chỉ cho phép thực hiện PPP trong 5 lĩnh vực: giao thông, năng lượng, xử lý nước và chất thải, y tế – giáo dục – đào tạo và hạ tầng công nghệ thông tin. Thực tế, TP. Hồ Chí Minh đang có nhu cầu rất lớn về PPP trong chuyển đổi số, logistics đô thị, nhà ở xã hội, chiếu sáng thông minh – những lĩnh vực chưa được pháp luật cho phép. Sự giới hạn này làm giảm cơ hội huy động khu vực tư nhân và khiến địa phương không thể chủ động áp dụng mô hình PPP trong các lĩnh vực đổi mới.

4.2. Thủ tục thẩm định và phê duyệt chủ trương đầu tư còn phức tạp, kéo dài

Quy trình thực hiện dự án PPP theo Điều 19 – 25 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 và Nghị định số 35/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 gồm nhiều bước: đề xuất dự án, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư, phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi, lựa chọn nhà đầu tư… Tuy nhiên, trên thực tế, quy trình này mất nhiều thời gian và chồng chéo. TP. Hồ Chí Minh phải trình hồ sơ qua nhiều cấp (Sở Tài chính, Sở Tư pháp, UBND Thành phố, Bộ Tài chính) để lấy ý kiến, trong khi quy định chưa phân cấp rõ ràng thẩm quyền giữa trung ương và địa phương.

Một số dự án PPP giao thông như mở rộng Quốc lộ 50, cải tạo kênh Xuyên Tâm, hay xử lý nước thải Bình Hưng được đề xuất từ năm 2021 nhưng đến năm 2024 vẫn chưa hoàn tất thẩm định do chưa có hướng dẫn cụ thể về xác định tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia và phương pháp đánh giá khả năng hoàn vốn của nhà đầu tư. Điều này khiến các doanh nghiệp tư nhân e ngại, làm giảm tính hấp dẫn của mô hình PPP.

4.3. Cơ chế chia sẻ rủi ro doanh thu còn thiếu tính khả thi

Theo Điều 82 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020, Nhà nước và nhà đầu tư có thể chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu trong phạm vi ±25% so với mức doanh thu cam kết trong hợp đồng. Tuy nhiên, để được áp dụng cơ chế chia sẻ rủi ro này, dự án phải đáp ứng hàng loạt điều kiện: đã được kiểm toán Nhà nước xác nhận được Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, và có lý do khách quan dẫn đến biến động doanh thu. Trên thực tế, các điều kiện này quá chặt chẽ và khó áp dụng, khiến chưa có dự án PPP nào tại TP. Hồ Chí Minh được hưởng cơ chế chia sẻ rủi ro doanh thu.

Nhà đầu tư tư nhân cho rằng quy định này làm giảm tính linh hoạt và rủi ro tài chính cao, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế biến động, lạm phát và thay đổi chính sách phí, giá. Điều này dẫn đến tâm lý “ngại PPP”, nhiều nhà đầu tư chuyển hướng sang các hình thức đầu tư khác.

4.4. Mẫu hợp đồng và hướng dẫn pháp lý chi tiết còn thiếu

Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 quy định về hợp đồng dự án tại Điều 47-59, song chưa ban hành mẫu hợp đồng chuẩn cho từng loại hình (BOT, BOO, BTL, O&M…). Nghị định số 35/2021/NĐ-CP mới chỉ đưa ra khung nguyên tắc chung, không đủ chi tiết để các bên tham chiếu. Do đó, tại TP. Hồ Chí Minh, mỗi dự án PPP đều phải tự xây dựng, thương thảo lại hợp đồng, dẫn đến kéo dài thời gian đàm phán và tăng chi phí chuẩn bị đầu tư.

Các điều khoản quan trọng như điều chỉnh giá, thay đổi pháp luật, chuyển nhượng hợp đồng hay chấm dứt trước hạn chưa có hướng dẫn cụ thể, khiến rủi ro pháp lý cao. Một số dự án BOT giao thông trước đây (như Xa lộ Hà Nội) từng gặp tranh chấp liên quan đến thời gian thu phí – điều này khiến các nhà đầu tư mới dè dặt khi tiếp cận mô hình hợp tác đối tác công – tư theo Luật mới.

4.5. Cơ chế giám sát, minh bạch thông tin và năng lực quản lý còn hạn chế

Theo Điều 93 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải công khai thông tin về dự án trên cổng thông tin điện tử. Tuy nhiên, tại TP. Hồ Chí Minh, việc công khai mới chỉ dừng ở danh mục dự án kêu gọi đầu tư, chưa có dữ liệu chi tiết về hợp đồng, tiến độ và kết quả thực hiện. Cơ chế giám sát cộng đồng, đánh giá độc lập vẫn còn hình thức, chưa phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, HĐND và báo chí trong kiểm soát quyền lực công.

Ngoài ra, năng lực của đội ngũ cán bộ phụ trách PPP ở các sở, ngành còn hạn chế; chưa được đào tạo chuyên sâu về pháp lý – tài chính. Thành phố hiện chưa có đơn vị đầu mối chuyên trách PPP, dẫn đến việc phối hợp, tổng hợp và báo cáo còn manh mún, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi Luật.

Nhìn chung, các bất cập nêu trên cho thấy Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020, dù đã tạo nền tảng pháp lý thống nhất, vẫn thiếu tính linh hoạt, thực tiễn và phù hợp với đặc thù đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh. Việc sớm sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến quy mô vốn, phân cấp thẩm quyền, cơ chế chia sẻ rủi ro và mẫu hợp đồng chuẩn là yêu cầu cấp thiết để nâng cao hiệu quả triển khai PPP, thu hút mạnh mẽ khu vực tư nhân cùng tham gia phát triển hạ tầng đô thị, kinh tế vùng và dịch vụ công trong giai đoạn mới.

5. Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công – tư

Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý và thể chế quản lý nhà nước về PPP.
Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 cần được rà soát, sửa đổi một số nội dung mang tính kỹ thuật và thực tiễn. Cụ thể: nghiên cứu điều chỉnh ngưỡng tổng mức đầu tư tối thiểu 200 tỷ đồng quy định tại Điều 5 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 cho phù hợp với điều kiện từng địa phương, nhất là các dự án quy mô trung bình nhưng có ý nghĩa lớn về xã hội – môi trường; mở rộng thêm các lĩnh vực được phép triển khai PPP theo Điều 4 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020, bao gồm hạ tầng số, logistics, năng lượng tái tạo, y tế dự phòng và công nghệ môi trường; hoàn thiện cơ chế chia sẻ rủi ro doanh thu quy định tại Điều 82 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 và Nghị định số 35/2021/NĐ-CP hướng tới chia sẻ linh hoạt hơn, tránh rủi ro đơn phương cho nhà đầu tư.

Ngoài ra, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 28/2021/NĐ-CP về cơ chế quản lý tài chính dự án PPP để quy định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc cam kết nguồn vốn Nhà nước tham gia, tránh tình trạng “chờ vốn đối ứng” làm chậm tiến độ thực hiện dự án.

Thứ hai, hoàn thiện quy trình thực hiện và cơ chế phê duyệt dự án PPP ở địa phương.

Thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh cho thấy, quy trình thẩm định, lựa chọn nhà đầu tư còn mất nhiều thời gian do có sự chồng chéo giữa các cơ quan như Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Xây dựng và UBND Thành phố. Cần xây dựng “một đầu mối quản lý PPP” tại địa phương có thể là Trung tâm xúc tiến đầu tư PPP trực thuộc UBND Thành phố để tiếp nhận, hướng dẫn, thẩm định và quản lý dự án một cách tập trung. Bên cạnh đó, cần chuẩn hóa các mẫu hợp đồng PPP, quy trình lập – thẩm định – ký kết dự án theo hướng đồng bộ với Thông tư số 09/2021/TT-BKHĐT giúp giảm thiểu chi phí giao dịch và thời gian đàm phán.

Thứ ba, nâng cao năng lực, trách nhiệm và đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ thực thi PPP.

Nhà nước cần ban hành chương trình bồi dưỡng chuyên sâu về pháp luật, tài chính và quản lý rủi ro PPP cho đội ngũ cán bộ tại các sở, ngành. TP. Hồ Chí Minh có thể phối hợp với các viện, trường luật và tài chính công để tổ chức đào tạo chuyên đề thực hành về hợp đồng PPP, quản trị dự án, giám sát đầu tư. Việc nâng cao năng lực này không chỉ giúp hạn chế sai sót pháp lý mà còn tăng tính minh bạch, giảm nguy cơ phát sinh tiêu cực trong quá trình lựa chọn nhà đầu tư.

Thứ tư, tăng cường công khai, minh bạch và cơ chế giám sát xã hội đối với các dự án PPP.

Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 đã có quy định về công khai thông tin dự án tại Điều 6 nhưng việc thực hiện vẫn còn hình thức. Cần xây dựng Cổng thông tin điện tử PPP TP. Hồ Chí Minh, công bố toàn bộ danh mục dự án kêu gọi đầu tư, tình trạng thực hiện, báo cáo tài chính, hợp đồng mẫu và cơ chế giám sát cộng đồng. Điều này không chỉ bảo đảm nguyên tắc minh bạch mà còn tạo niềm tin cho khu vực tư nhân, khuyến khích các tổ chức tài chính quốc tế tham gia.

Thứ năm, đẩy mạnh phối hợp vùng và liên kết phát triển theo mô hình PPP mở rộng.

Sau khi hình thành cơ chế phối hợp vùng giữa TP. Hồ Chí Minh sau sáp nhập Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu, việc thiết lập các dự án PPP liên vùng (ví dụ: giao thông, logistics, năng lượng, môi trường…) cần có khung pháp lý rõ ràng hơn. Kiến nghị Chính phủ sớm ban hành văn bản hướng dẫn riêng về PPP liên vùng và PPP đô thị đặc biệt, tạo cơ sở pháp lý cho các dự án kết nối hạ tầng và dịch vụ công trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Như vậy, việc hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi PPP không chỉ có ý nghĩa thuần túy về mặt pháp lý mà còn là giải pháp chiến lược để TP. Hồ Chí Minh phát huy vai trò đầu tàu kinh tế, giảm gánh nặng ngân sách và thúc đẩy phát triển bền vững.

6. Kết luận

Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 ra đời đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thể chế hóa chủ trương huy động nguồn lực xã hội cho phát triển kết cấu hạ tầng và dịch vụ công. Tuy nhiên, quá trình thực thi tại TP. Hồ Chí Minh địa phương năng động, có nhu cầu đầu tư lớn và cơ chế quản lý phức tạp đã bộc lộ nhiều bất cập cả về quy trình pháp lý, cơ chế tài chính, năng lực tổ chức thực hiện và phối hợp giữa các cơ quan chức năng.

Từ thực tiễn, bài viết chỉ ra những hạn chế chủ yếu trong triển khai Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020, đồng thời đề xuất nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, cải tiến quy trình thực hiện, nâng cao năng lực cán bộ, tăng cường minh bạch và thiết lập cơ chế liên kết vùng hiệu quả. Các kiến nghị này không chỉ có giá trị tham khảo cho cơ quan trung ương trong sửa đổi pháp luật mà còn mang ý nghĩa thiết thực đối với chính quyền TP. Hồ Chí Minh trong việc nâng cao hiệu quả quản lý, thu hút đầu tư và phát triển bền vững. Việc tiếp tục hoàn thiện thể chế và cơ chế thực thi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 là yêu cầu tất yếu góp phần khẳng định vai trò đầu tàu của TP. Hồ Chí Minh trong hợp tác công – tư tại Việt Nam hiện nay.

Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2020). Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020.
2. Chính phủ (2021). Nghị định số 35/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư.
3. Chính phủ (2021). Nghị định số 28/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 quy định cơ chế quản lý tài chính dự án đầu tư theo phương thức PPP.
4. Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (2022). Báo cáo tình hình thực hiện đầu tư theo phương thức PPP năm 2021 tại TP. Hồ Chí Minh.
5. Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (2024). Báo cáo tình hình thực hiện đầu tư theo phương thức PPP năm 2023 tại TP. Hồ Chí Minh.
6. Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (2024). Báo cáo tình hình triển khai các dự án đầu tư theo hình thức PPP giai đoạn 2020 – 2024.
7. Nguyễn Hữu Dũng (2022). Pháp luật về hợp tác công – tư trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 10(466), tr. 35- 42.
8. Lê Thị Thu Hiền (2023). Một số bất cập trong triển khai Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020 tại các đô thị lớn – Trường hợp TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, số 4 (152), tr. 54 – 61.
9. UBND TP. Hồ Chí Minh (2023). Kế hoạch số 2463/KH-UBND ngày 22/6/2023 về thúc đẩy đầu tư theo phương thức đối tác công – tư trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2023-2025.