Một số vấn đề về phát triển du lịch gắn với phát triển văn hoá dân tộc trở thành ngành mũi nhọn của nền kinh tế Việt Nam

GVCC.TS. Nguyễn Văn Dũng
Trường Đại học Thành Đô

(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế Việt Nam là chủ đề nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và sự quan tâm của các nhà quản lý. Với chủ đề này, tác giả mong muốn tìm ra lộ trình phát triển vượt bậc cho ngành Du lịch với điều kiện tiên quyết đó là “phát triển du lịch gắn với phát triển văn hóa dân tộc”. Bài viết phân tích mối quan hệ hữu cơ, cộng sinh phát triển văn hóa dân tộc với phát triển du lịch và nhận diện những tiềm năng của du lịch gắn văn hóa dân tộc, từ đó, đề xuất giải pháp phát triển du lịch gắn với phát triển văn hóa trở thành ngành kinh tế dịch vụ quan trọng.

Từ khóa: Phát triển du lịch, phát triển văn hóa, ngành kinh tế mũi nhọn, tiềm năng của du lịch.

1. Đặt vấn đề

Nước ta có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có một bản sắc văn hóa riêng đã tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng trong sự thống nhất, đây là nguồn lực to lớn cho phát triển kinh tế nói chung, phát triển du lịch nói riêng. Văn hóa là chất xúc tác và là nguồn lực to lớn cho phát triển du lịch. Vấn đề đặt ra là, cần có bước đi thích hợp, với cơ chế chính sách phù hợp, nhiều giải pháp khả thi nhằm khai thác một cách có hiệu quả nguồn lực tiềm năng sẵn có tạo ra nhiều sung lực cho phát triển văn hóa và phát triển du lịch. Trong những năm gần đây ngành Du lịch đã có nhiều giải pháp thúc đẩy phát triển du lịch. Tuy nhiên, chưa có giải pháp phát triển toàn diện, đồng bộ phát triển du lịch gắn phát triển văn hóa, dẫn đến thiếu bền vững, manh mún, bất cập trong quá trình triển khai, khó hình thành một hệ sinh thái đồng bộ trong toàn ngành.

Để thấy rõ mối quan hệ giữa phát triển du lịch gắn phát triển văn hóa dân tộc trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế Việt Nam, bài viết sử dụng các phương pháp phân tích dữ liệu, phương pháp tổng hợp tài liệu, phương pháp quan sát. Các số liệu, tư liệu được hệ thống hóa, phân tích nhằm nhận diện những tiềm năng, dư địa của phát triển du lịch gắn với phát triển văn hóa dân tộc. Từ đó, đưa ra các giải pháp khả thi, đồng bộ cho phát triển du lịch Việt Nam, góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế của đất nước. Đồng thời, bài viết cũng hy vọng sẽ cung cấp một góc nhìn về mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển du lịch với phát triển văn hóa dân tộc; nhận diện văn hóa dân tộc là nguồn lực quan trọng, là bệ đỡ vững chắc, có vai trò quan trọng cho phát triển du lịch; mặt khác, phát triển du lịch gắn với phát triển văn hóa giúp cho văn hóa được bảo tồn, duy trì, ngày càng phát triển với sức sống mới và đầy sự sáng tạo.

2. Một số vấn đề về văn hóa, du lịch

Hồ Chủ tịch chỉ rõ: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” và “Văn hóa còn dân tộc còn”. Đến nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1. Khái niệm về du lịch, Tổ chức Du lịch thế giới (United Nations World Tourism Organization – UNWTO) cho rằng du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của cá nhân đi, đến và lưu lại ngoài vị trí nơi ở thường xuyên trong thời gian không dài (hơn 1 năm) với những mục đích khác nhau, ngoại trừ mục đích kiếm tiền hàng ngày (UNWTO, 2021)2.  Du lịch: “Là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”3.

Du lịch văn hóa: “là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở khai thác giá trị văn hóa, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, tôn vinh giá trị văn hóa mới của nhân loại”4.

Hoạt động du lịch: “là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch và cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư có liên quan đến du lịch”5.

3. Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển du lịch gắn với phát triển văn hóa

Về mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá, Đảng ta khẳng định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998)6, Văn hóa hướng đích tới giá trị nhân văn, vì hạnh phúc và ấm no của con người và sự thịnh vượng, văn minh của quốc gia, đây cũng chính là mục tiêu của phát triển đất nước nói chung và phát triển kinh tế – xã hội nói riêng.

Thực tiễn đã cho thấy, sự hiện diện của văn hóa trong lĩnh vực kinh tế ngày càng sâu rộng, với vai trò là nguồn lực tiềm năng rất lớn cho sự phát triển kinh tế, văn hóa đã và đang tham gia điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế ở rất nhiều phương diện. Để văn hóa trở thành động lực đột phá cho sự phát triển kinh tế, cần thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về vai trò, tầm quan trọng của văn hóa trong phát triển đất nước nói chung, phát triển kinh tế, phát triển du lịch văn hóa nói riêng.

Ngày 16/01/2017, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08/NQ-TW đã xác định mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác”. Theo đó nhiệm vụ thời gian tới “Phát huy giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể tham gia vào phát triển du lịch mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, đa sắc màu văn hóa địa phương, vùng miền; đầu tư phát triển công nghiệp văn hóa trong đó coi trọng du lịch văn hóa” (Chính phủ, 2023)7.

Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 “Du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn và phát triển bền vững. Việt Nam trở thành điểm đến đặc biệt hấp dẫn, thuộc nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới, đáp ứng đầy đủ yêu cầu và mục tiêu phát triển bền vững. Với mục tiêu, nhiệm vụ: tổng thu từ khách du lịch đạt 3.100 – 3.200 nghìn tỷ đồng (tương đương 130 – 135 tỷ USD), tăng trưởng bình quân 11 – 12%/năm; đóng góp trực tiếp vào GDP đạt 15 – 17%; tạo ra khoảng 8,5 triệu việc làm, trong đó có khoảng 3 triệu việc làm trực tiếp, tăng trưởng bình quân 8 – 9%/năm; về khách du lịch: Phấn đấu đón được ít nhất 50 triệu lượt khách quốc tế và 160 triệu lượt khách nội địa; duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân về khách quốc tế từ 8 – 10%/năm và khách nội địa từ 5 – 6%/năm” (Thủ tướng Chính phủ, 2020)8.

Năm 2025 và những năm tiếp theo, nước ta tập trung triển khai quyết liệt thực hiện “Quy hoạch hệ thống du lịch Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Đề án “Chiến lược marketing du lịch Việt Nam”; Đề án “Ứng dụng công nghiệp 4.0 để phát triển du lịch thông minh”; Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030. Trước mắt, tập trung thực hiện các đề án phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa…

4. Phát triển du lịch gắn với bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc

Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ hữu cơ giữa văn hóa và du lịch, các nghiên cứu đã chỉ ra: văn hóa tạo ra sức hấp dẫn mạnh mẽ cho du lịch; văn hóa vật thể, phi vật thể là tài nguyên, tài sản, nguồn lực, là tiềm năng để phát triển du lịch. Văn hóa kết hợp với du lịch sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh so sánh đặc biệt cho cả hai, “văn hóa và du lịch có mối quan hệ cộng sinh cùng phát triển”.

Thực hiện đồng bộ cho phát triển bền vững du lịch, cần quan tâm bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết toàn diện những vấn đề xã hội “Phát triển du lịch bền vững; bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên nhiên; giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và an sinh xã hội” (Bộ Chính trị, 2017)9. Không vì mục tiêu phát triển kinh tế mà coi nhẹ việc đầu tư cho phát triển văn hóa – xã hội.

Văn hóa là nguồn lực phát triển, là sức mạnh mềm của của dân tộc, nước ta phải giàu lên từ văn hóa, mạnh lên từ văn hóa và được nhân lên khi thực hiện đi cùng với hoạt động du lịch. Đây là phương thức, là động lực, là con đường rất nhiều quốc gia trên thế giới đang hướng đến đầu tư và phát triển. Chiến lược phát triển du lịch cũng đã nêu rõ: “Chú trọng phát triển sản phẩm du lịch văn hóa, gắn với bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, lịch sử, truyền thống của dân tộc; tập trung khai thác thế mạnh ẩm thực đa dạng, đặc sắc của các vùng, miền để hình thành sản phẩm du lịch độc đáo, khác biệt, có lợi thế cạnh tranh, góp phần tạo dựng thương hiệu nổi bật của du lịch Việt Nam” (Thủ tướng Chính phủ, 2020)10.

Thực tiễn chỉ ra rằng, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội, bởi nó tạo ra yếu tố nội sinh đặc biệt, tác động rất lớn đến năng lực phát triển của quốc gia. Đối với du lịch, văn hóa tạo nội lực mạnh mẽ cho phát triển. Văn hóa và du lịch có mối quan hệ khăng khít, tác động tương hỗ tạo nên sức mạnh cạnh tranh, tính hấp dẫn và sự phát triển bền vững của du lịch. Văn hóa ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của sản phẩm du lịch, vì nó thể hiện rõ sự độc đáo riêng có yếu tố văn hóa tộc người, yếu tố văn hóa vùng miền đang từng bước khẳng định sự hấp dẫn, vị thế của hoạt động du lịch.

Như vậy, du lịch là một phương thức tối ưu, hiệu quả để nâng cao giá trị văn hóa và mang lại nguồn lợi kinh tế, góp phần bảo tồn, duy trì, phát triển các di sản văn hóa, kiến tạo cho các sản phẩm văn hóa, thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo. Do vậy, rất cần “Phát triển, làm mới loại hình, dịch vụ du lịch đa dạng, độc đáo trên cơ sở tiềm năng, lợi thế cạnh tranh, gắn với phát huy giá trị di sản và bản sắc văn hóa dân tộc, như du lịch nghỉ dưỡng biển, đảo, du lịch văn hóa lịch sử, du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp, nông thôn, du lịch MICE, du lịch golf, du lịch chữa bệnh, du lịch ẩm thực…”11. Và, đặc biệt coi trọng “Gắn phát triển du lịch văn hóa với trải nghiệm đời sống cộng đồng để nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, góp phần xóa đói giảm nghèo cho người dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”12.

So với nhiều quốc gia trên thế giới, công nghiệp văn hóa của Việt Nam còn khá mới mẻ, đang hình thành và từng bước phát triển. Trong những năm gần đây, sản phẩm từ ngành công nghiệp văn hóa đã tạo nên hiệu ứng tích cực cho ngành Du lịch, nó là đòn bẩy hiệu quả để thúc đẩy du lịch phát triển. Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm phát triển công nghiệp văn hóa của các nước trên thế giới. Thực tế đã chứng minh, du lịch văn hóa là bộ phận cấu thành các ngành công nghiệp văn hóa, mặt khác nó còn là cơ sở tiền đề tạo ra nguồn lực quan trọng giúp bảo tồn, duy trì, phát huy giá trị văn hóa một cách sâu rộng bền vững. Khẳng định vai trò, vị thế của ngành công nghiệp văn hóa trong mối liên kết chặt chẽ với du lịch. Do vậy, cần có nhiều cơ chế chính sách phù hợp khơi thông năng lực đổi mới sáng tạo của các tổ chức, cá nhân.

Để du lịch văn hóa trở thành bộ phận không thể tách rời công nghiệp văn hóa, yếu tố tiên quyết là phải có những sản phẩm du lịch sáng tạo, mang đến trải nghiệm đặc sắc độc đáo, khác biệt cho đối tượng du khách. Nhân tố để tạo ra khác biệt này chính là khai thác những yếu tố văn hóa mang tính bản sắc tộc người, đặc trưng của vùng miền, địa phương, điểm đến. Tiềm năng du lịch văn hóa của Việt Nam là rất lớn, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu du lịch văn hóa của du khách đang có xu hướng ngày càng tăng. Bài toán đặt ra phải đa dạng sản phẩm theo từng nhóm đối tượng: nhóm du khách trẻ, du khách trung tuổi, nhóm du khách cao tuổi.

Trong những năm gần đây, du lịch văn hóa không ngừng phát triển, làm thay đổi căn bản ngành Du lịch, theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh, khẳng định vị thế du lịch Việt Nam trên trường quốc tế, từng bước nâng tỷ trọng kinh tế du lịch trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân ngày càng cao, khẳng định vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Do vậy, việc phát triển kinh tế du lịch sẽ góp phần tạo thêm sung lực mới, là điểm tăng trưởng mới và là nhân tố phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam. Văn hóa và du lịch có mối liên hệ chặt chẽ mang tính cộng sinh hỗ trợ cho nhau trong quá trình phát triển. Du lịch phải dựa vào văn hóa để hình thành và phát triển những sản phẩm độc đáo, tạo sự hấp hẫn, thu hút cho du khách. Cùng với đó, văn hóa được quảng bá rộng rãi, bảo tồn, duy trì phát triển ngày càng tốt hơn thông qua các hoạt động du lịch.

5. Giải pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của kinh tế Việt Nam  

Thứ nhất, đổi mới cơ chế chính sách, huy động nguồn lực phát triển du lịch gắn phát triển văn hóa.

Trong thời gian tới, cần thực hiện tốt nhiệm vụ: “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp; có cơ chế, chính sách phù hợp và đột phá để phát triển du lịch thành kinh tế mũi nhọn… Ban hành cơ chế, chính sách huy động tối đa nguồn lực xã hội để đầu tư phát triển du lịch theo định hướng cơ cấu lại ngành Du lịch” (Bộ Chính trị, 2017)13.

Đẩy mạnh đổi mới cơ chế chính sách phát triển văn hóa, phát triển du lịch văn hóa, chuyển đổi số trong ngành du lịch. Có cơ chế chính sách huy động mọi nguồn lực (ngân sách nhà nước, vốn tư nhân, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài…) cho đầu tư phát triển du lịch văn hóa, đầu tư hạ tầng phục vụ cho chuyển đổi số ngành Du lịch nói chung, du lịch văn hóa nói riêng. Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp văn hóa góp phần phát triển du lịch gắn với phát triển văn hóa.

Ngành Du lịch cần thường xuyên mở các lớp tập huấn đội ngũ cán bộ quản lý du lịch ở các địa phương và các doanh nghiệp du lịch nhằm nâng cao năng lực tiếp cận và khai thác ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển du lịch. Mặt khác, cần có chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm thích ứng tốt với xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay. Trên thực tế chúng ta đang thiếu nguồn nhân lực có chất lượng trong quản lý, điều hành, vận hành hoạt động ngành du lịch, nhất là nhân lực sử dụng thành thạo công nghệ, nhân lực ứng dụng khoa học và công nghệ, chuyển đổi số.

Thứ hai, phát triển du lịch thông minh, du lịch trách nhiệm.

Các nước trên thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với nền tảng chủ yếu là công nghệ số; phát triển mạng Internet kết nối vạn vật, được ứng dụng vào mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có ngành Du lịch. Phát triển du lịch thông minh (Smart tourism) được xây dựng dựa trên nền tảng công nghệ số hóa, hệ thống công nghệ thông tin đường truyền Internet. Khi có một lượng dữ liệu lớn về thông tin các điểm đến du lịch, khách hàng có thể dễ dàng lựa chọn cách thức du lịch phù hợp với mình và trải nghiệm với những hình thức du lịch thú vị, nâng cao chất lượng sản phẩm của ngành Du lịch. Du lịch thông minh sẽ tăng sức hấp dẫn cho các sản phẩm du lịch, nâng cao hiệu quả trong việc quảng bá tiếp thị sản phẩm của du lịch nói chung, du lịch văn hóa nói riêng, góp phần thay đổi cách tiếp cận và sự cảm nhận của du khách.

Xây dựng bộ tiêu chí du lịch trách nhiệm; liên kết, kết nối và xây dựng chuỗi sản phẩm du lịch văn hóa thân thiện với môi trường, theo hướng kinh tế xanh, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, di chuyển, vận chuyển khách du lịch bằng phương tiện ô tô, tàu thuyền… thân thiện, gắn với bảo vệ môi trường; sử dụng bát đĩa, muôi, thìa, đũa, ghế ngồi… phục vụ du khách du lịch làm bằng tre, gỗ, giấy, vật liệu thân thiện với môi trường; nói không với đồ dùng bằng nhựa, túi ny lông…

Tuyên truyền sâu rộng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch nhằm nâng cao kiến thức về phát triển du lịch bền vững, hướng đến mục tiêu tăng cường hiệu quả kinh tế – xã hội, góp phần bảo tồn, duy trì, phát triển các giá trị văn hóa; bảo vệ môi trường tự nhiên; sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội.

Thứ ba, phát triển du lịch văn hóa và đẩy mạnh chuyển đổi số.

Truyền thông quảng bá điểm đến du lịch với các hoạt động tham quan di sản văn hóa với các trải nghiệm độc đáo về văn hóa tộc người, vùng miền; khuyến khích phát triển các loại hình du lịch văn hóa, đặc biệt là du lịch di sản, du lịch tâm linh. Liên kết xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa với các nước ASEAN, đẩy mạnh liên kết vùng, địa phương; chú trọng phối hợp liên ngành trong việc quản lý, khai thác và phát huy một cách phù hợp các giá trị văn hóa trong quá trình phát triển sản phẩm du lịch văn hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; xúc tiến, quảng bá rộng rãi sản phẩm du lịch văn hóa trong và ngoài nước; tập trung thu hút khách du lịch văn hóa có khả năng chi trả cao và lưu trú dài ngày; đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu mua sắm của khách du lịch.

Sớm hoàn thiện “Bản đồ ẩm thực Việt Nam” trên cơ sở sưu tầm ẩm thực của các dân tộc, của các địa phương, vùng miền, hình thành chuỗi giá trị văn hóa (di sản văn hóa, di tích lịch sử văn hóa v.v…, du lịch trải nghiệm văn hóa tộc người với các ẩm thực độc đáo của các dân tộc, của địa phương) gắn với các điểm đến du lịch, đây là xúc tác quan trọng tạo sự hấp dẫn cho các du khách.

Tiến hành mạnh mẽ cấu trúc lại ngành du lịch ở tất cả các khâu, bắt đầu từ khâu xúc tiến quảng bá, nâng cao nhận thức về “lối sống xanh”, bảo vệ môi trường sống, môi trường tự nhiên, xây dựng hệ sinh thái cộng đồng phát triển du lịch bền vững. Nhà nước cần xây dựng và ban hành “Bộ tiêu chí du lịch xanh”, trên cơ sở đó, các cơ quan quản lý, doanh nghiệp du lịch vận dụng trong quá trình đầu tư, quy hoạch và kinh doanh. Đồng thời, đây cũng là căn cứ để công nhận sản phẩm du lịch xanh như “tour xanh”, “khách sạn xanh”, “nhà hàng xanh”, “khu nghỉ dưỡng xanh”…” (Nguyễn Văn Đính, 2021)14.

Công việc số hóa các di sản văn hóa được xem là nhiệm vụ trọng tâm rất cấp thiết của lưu trữ, lưu truyền di sản văn hóa, di tích lịch sử; đó là việc chuyển đổi thông tin từ các tư liệu, dữ liệu, hình ảnh truyền thống sang phương thức lưu trữ bằng thiết bị hiện đại, như: cơ sở dữ liệu số, sản phẩm 3D, bảo vật 3D, website, email, ảnh kỹ thuật số, phim, DVD, MP3, ứng dụng công nghệ thực tế ảo (VR), giúp công tác quản lý, bảo quản được tốt hơn trước mối đe dọa xuống cấp của các di tích lịch sử, văn hóa; tăng cường khả năng truy cập, sử dụng thông tin về di sản từ xa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm hiểu nghiên cứu, học tập và du lịch; giúp cho việc tìm hiểu di tích, di sản một cách linh hoạt, nhanh chóng, hiệu quả.

6. Kết luận

Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy, vai trò của văn hóa trong phát triển du lịch; mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch; ví trí tầm quan trọng du lịch văn hóa trong quá trình phát triển của ngành du lịch; vị thế của kinh tế du lịch đối với nền kinh tế Việt Nam. Qua tìm hiểu nghiên cứu, tác giả nhận thấy chưa có công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu luận giải đầy đủ, hệ thống, toàn diện về sự cần thiết và những nhận diện về tiềm năng phát triển du lịch văn hóa; những khoảng trống về cơ chế chính sách cho phát triển công nghiệp văn hóa và mối liên kết giữa phát triển công nghiệp văn hóa với phát triển du lịch văn hóa trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang chuyển sang nền kinh tế số, lĩnh vực này hiện nay đang gặp khó khăn nhất định, nhất là chính sách cho hành lang pháp lý phát triển, bởi so với nhiều quốc gia khác trên thế giới phát triển công nghiệp văn hóa của nước ta đang được hình thành và từng bước phát triển. Vì vậy, rất cần có chính sách đủ mạnh nhằm kiến tạo phát triển du lịch văn hóa hình thành chuỗi giá trị, gắn kết trong bảo tồn, duy trì, phát triển văn hóa, đây cũng là cơ sở tiền đề cho phát triển du lịch, nó trở thành mắt xích chủ yếu, từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Trên sơ sở chủ trương quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển du lịch văn hóa, bài viết đã đánh giá tình hình du lịch nói chung, du lịch văn hóa nói riêng, phân tích mối quan hệ giữa du lịch văn hóa với phát triển kinh tế, đồng thời đưa ra các giải pháp cho phát triển du lịch gắn với phát triển văn hóa. Trong đó cần đẩy nhanh công cuộc chuyển đổi số quốc gia về du lịch, du lịch văn hóa, nhằm tạo thêm nhiều sung lực, sự đột phá trong phát triển du lịch, du lịch gắn với văn hóa với mục tiêu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong phát triển kinh tế – xã hội đất nước.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2000). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 431.
2. UNWTO (9/6/2021). Tourism and Culture Synergies. https://www.e-unwto.org/doi/pdf/10.18111/9789284418978.
3. Điểm 1, Điều 3 Luật Du lịch năm 2017.
4. Điểm 17, Điều 3 Luật Du lịch năm 2017.
5. Điểm 3, Điều 3 Luật Du lịch  năm 2017.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII). H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 55.
7, 11. Chính phủ (2023). Nghị quyết số 82/NQ-CP ngày 18/5/2023 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh phục hồi, tăng tốc phát triển du lịch hiệu quả, bền vững.
8, 10, 12. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 147/QĐ- TTg ngày 22/01/2020  phê duyệt chiến lược phát triển du lịch VN đến năm 2030.
9, 13. Bộ Chính trị (2017). Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
14. Nguyễn Văn Đính (2021), “Bảo tồn và phát triển du lịch xanh Việt Nam”, Tạp chí Môi trường số 1/2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Thủ tướng Chính phủ (2016). Quyết định số 1755/QĐ- TTg ngày 8/9/2016 phê duyệt chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa VN đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030.
2. Thúc đẩy du lịch trong mối liên kết công nghiệp văn hóa. https://nhandan.vn/thuc-day-du-lich-trong-moi-lien-ket-cong-nghiep-van-hoa-post733656.html, ngày 07/01/2023
3. “Nghiên cứu nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế”. https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nghien-cuu-nang-cao-nang-luc-canh-tranh-cua-nganh-du-lich-trong-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-77358.htm.
4. Chuyển đổi số để phát triển du lịch: Xu hướng tất yếu. https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Du-lich/981177/chuyen-doi-so-de-phat-trien-du-lich-xu-huong-tat-yeu.
5. Văn hóa du lịch – Nguồn lực cốt lõi để phát triển du lịch bền vững. http://vtr.org.vn/van-hoa-du-lich-nguon-luc-cot-loi-de-phat-trien-du-lich-ben-vung.html.
6. Du lịch thông minh – Xu hướng phát triển tất yếu của ngành Du lịch Việt Nam. https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/du-lich-thong-minh-xu-huong-phat-trien-tat-yeu-cua-nganh-du-lich-viet-nam-71954.htm.