Thái Văn Tài
Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương – Nha Trang
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học công lập theo hướng tự chủ là yêu cầu tất yếu. Tự chủ đại học giúp phát huy tính năng động, sáng tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Tuy nhiên, nếu thiếu sự quản lý nhà nước hiệu quả, quá trình tự chủ có thể dẫn đến bất bình đẳng, thương mại hóa giáo dục. Bài viết làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học công lập theo hướng tự chủ ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Quản lý nhà nước; đại học công lập; tự chủ; hiệu quả; cơ sở giáo dục.
1. Mở đầu
Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước (QLNN) đối với cơ sở giáo dục đại học công lập theo hướng tự chủ đang trở thành yêu cầu cấp thiết. “Tự chủ đại học đang là xu hướng mang tính toàn cầu trong quản trị giáo dục đại học”1nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, để tự chủ thực sự đi vào thực chất, cần có cơ chế QLNN đồng bộ, hiệu quả, vừa bảo đảm quyền tự chủ, vừa giữ vai trò định hướng, giám sát và hỗ trợ kịp thời. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, mặc dù đã đạt nhiều kết quả tích cực, nhưng công tác QLNN đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập, đặc biệt trong khung pháp lý, cơ chế phối hợp và năng lực quản trị. Do đó, việc nâng cao hiệu quả QLNN trong lĩnh vực này có ý nghĩa quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
2. Yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học công lập theo hướng tự chủ
“Tự chủ đại học là khái niệm phản ánh mối tương quan giữa nhà nước và cơ sở đào tạo đại học theo hướng phát huy năng lực nội tại của các cơ sở đào tạo và giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của cơ quan công quyền”2. Theo đó, QLNN đối với cơ sở giáo dục đại học theo hướng tự chủ được hiểu là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền nhằm ban hành, tổ chức thực hiện và giám sát chính sách, pháp luật, bảo đảm cơ sở giáo dục được quyền tự chủ về tổ chức, nhân sự, tài chính và học thuật trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động này vừa tạo môi trường phát huy tính năng động, sáng tạo, vừa duy trì kỷ cương, chất lượng và định hướng phát triển giáo dục đại học.
Trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, việc nâng cao hiệu quả QLNN đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập theo hướng tự chủ trở thành một yêu cầu tất yếu, vừa phù hợp với xu thế phát triển, vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả QLNN là yêu cầu tất yếu để bảo đảm thực thi đúng đắn chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về tự chủ đại học. Tự chủ đại học được xem là xu thế phát triển tất yếu, giúp các cơ sở giáo dục đại học công lập chủ động hơn trong tổ chức đào tạo, nghiên cứu khoa học, tài chính và nhân sự. Tuy nhiên, nếu thiếu sự QLNN chặt chẽ, đồng bộ thì tự chủ dễ bị hiểu sai hoặc vận dụng không đúng, dẫn đến nguy cơ thương mại hóa giáo dục, coi trọng lợi nhuận hơn chất lượng. Vì vậy, QLNN cần giữ vai trò định hướng, giám sát để tự chủ đi đúng quỹ đạo, bảo đảm vừa phát huy được tính năng động của các trường, vừa duy trì được mục tiêu phục vụ lợi ích công và yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả QLNN là cơ sở để bảo đảm chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, nếu thiếu cơ chế quản lý thống nhất và hiệu quả, nhiều trường có thể rơi vào tình trạng mất cân đối, chất lượng đào tạo không đồng đều, ảnh hưởng đến uy tín giáo dục đại học Việt Nam. QLNN cần tập trung vào xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kiểm định chất lượng, khung trình độ quốc gia, đồng thời giám sát việc thực hiện công khai, minh bạch của các trường. Điều này sẽ giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập với nền giáo dục tiên tiến của khu vực, thế giới.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả QLNN là yêu cầu khách quan để tạo cơ chế, môi trường pháp lý thuận lợi cho các cơ sở giáo dục đại học công lập phát triển bền vững. Quản lý hiệu quả không có nghĩa là can thiệp sâu vào hoạt động nội bộ của nhà trường mà là thiết kế hệ thống chính sách, pháp luật phù hợp; đồng thời, bảo đảm tính minh bạch, công khai, khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới. Khi có khung pháp lý ổn định, rõ ràng, các trường sẽ tự tin triển khai quyền tự chủ, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực xã hội, phát huy tiềm năng nội tại.
3. Thực trạng về quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học công lập theo hướng tự chủ
Những năm gần đây, hoạt động QLNN đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập theo hướng tự chủ ở Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần đổi mới toàn diện giáo dục đại học, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách về QLNN trong giáo dục đại học từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện tự chủ. Việc ban hành Luật Giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung và các nghị định, thông tư hướng dẫn đã xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học công lập; quy định cụ thể vai trò quản lý của Nhà nước. Các văn bản pháp lý này đã tạo điều kiện để các trường được quyền quyết định nhiều vấn đề về tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính và học thuật; đồng thời, gắn với trách nhiệm giải trình minh bạch trước xã hội.
Thứ hai, năng lực quản trị của các cơ sở giáo dục đại học công lập được nâng cao, thể hiện ở việc chủ động xây dựng chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện và thế mạnh của mình. Dưới sự định hướng, kiểm tra và giám sát của Nhà nước, nhiều trường đã phát huy quyền tự chủ để mở rộng ngành nghề đào tạo, đổi mới chương trình học, tăng cường nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế. Nhờ đó, chất lượng đào tạo được cải thiện, số lượng công trình khoa học có giá trị thực tiễn tăng lên, uy tín và vị thế của một số trường đại học Việt Nam được nâng cao trên các bảng xếp hạng khu vực và quốc tế.
Thứ ba, việc đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ đã góp phần tăng tính cạnh tranh, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học công lập. Dưới sự quản lý chặt chẽ nhưng linh hoạt của Nhà nước, các trường ngày càng quan tâm đến hiệu quả sử dụng nguồn lực, chú trọng công khai tài chính, đa dạng hóa nguồn thu, giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách. Điều này không chỉ giúp nâng cao năng lực tài chính của các trường mà còn thúc đẩy đổi mới sáng tạo, gắn đào tạo với nhu cầu thực tiễn xã hội và thị trường lao động.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn cho thấy, QLNN đối với cơ sở giáo dục đại học công lập theo hướng tự chủ ở Việt Nam vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của quá trình thực hiện tự chủ.
Một là, hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách về tự chủ đại học chưa thực sự đồng bộ và thống nhất. Một số văn bản quy phạm pháp luật quy định về cơ chế tự chủ còn chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật, nghị định và thông tư dẫn đến khó khăn trong tổ chức thực hiện. Cụ thể, Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018 đã mở rộng quyền tự chủ của các trường, nhưng một số quy định liên quan đến tài chính, quản lý tài sản công hay quy hoạch nhân sự lại chịu sự điều chỉnh của các văn bản khác, khiến nhiều cơ sở lúng túng trong triển khai. Điều này dẫn đến tình trạng một số trường được trao quyền tự chủ nhưng thực chất vẫn bị “ràng buộc kép” bởi nhiều thủ tục hành chính.
Hai là, năng lực quản trị đại học và trách nhiệm giải trình ở một số cơ sở giáo dục công lập còn hạn chế. Không ít trường đại học chưa xây dựng được mô hình quản trị hiện đại, còn nặng tính hành chính, thiếu minh bạch trong việc công khai tài chính, tuyển sinh hay bổ nhiệm nhân sự. Chẳng hạn, có trường khi triển khai cơ chế tự chủ đã tăng học phí nhanh chóng nhưng chưa gắn với nâng cao chất lượng đào tạo và dịch vụ hỗ trợ người học, gây nên dư luận xã hội không đồng thuận. Điều này cho thấy sự hạn chế trong việc kiểm soát nội bộ và trách nhiệm giải trình trước xã hội.
Ba là, vai trò giám sát, thanh tra, kiểm tra của các cơ quan QLNN vẫn chưa được thực hiện hiệu quả. Một số bộ, ngành và địa phương còn thiên về quản lý theo kiểu “tiền kiểm”, can thiệp sâu vào hoạt động của nhà trường, trong khi chưa chú trọng xây dựng cơ chế hậu kiểm gắn với đánh giá chất lượng và chuẩn mực đào tạo. Nhiều trường tự chủ nhưng vẫn phải xin ý kiến cho những vấn đề thuộc quyền quyết định, làm giảm tính linh hoạt và sáng tạo. Điển hình như việc phê duyệt chỉ tiêu tuyển sinh, bổ nhiệm nhân sự chủ chốt vẫn chịu sự quản lý chặt chẽ của cấp trên, khiến tự chủ chưa thực sự đi vào bản chất.
4. Một số giải pháp
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến tự chủ đại học.
Để cơ chế tự chủ tại các cơ sở giáo dục đại học công lập được thực thi hiệu quả, một trong những yêu cầu hàng đầu là phải “tiếp tục hoàn thiện khung hành lang pháp lý quy định về tự chủ trong trường đại học”3 nhằm bảo đảm tính đồng bộ, minh bạch, khả thi, qua đó, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho quá trình triển khai. Hệ thống pháp luật không chỉ định hình phạm vi, nội dung và mức độ tự chủ mà còn tạo ra hành lang an toàn để các cơ sở giáo dục đại học công lập vận hành, phát triển bền vững.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về tự chủ đại học theo hướng đồng bộ, rõ ràng và thống nhất. Hiện nay, nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tự chủ đại học còn chồng chéo, thiếu sự thống nhất giữa Luật Giáo dục đại học, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản côngvà các nghị định hướng dẫn. Điều này dẫn đến những khó khăn trong việc thực thi, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, tổ chức bộ máy và nhân sự. Vì vậy, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, loại bỏ sự mâu thuẫn, bảo đảm tính tương thích giữa các luật và các chính sách. Đồng thời, cần ban hành những quy định cụ thể, chi tiết về phạm vi tự chủ trong đào tạo, nghiên cứu khoa học, quản lý tài chính, hợp tác quốc tế và quản trị nội bộ. Cùng với đó, việc hoàn thiện cơ chế giải trình, công khai, minh bạch phải được đặt ra như một nguyên tắc pháp lý bắt buộc, vừa giúp Nhà nước thực hiện vai trò giám sát, vừa bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người học và xã hội.
Xây dựng và điều chỉnh chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở giáo dục đại học công lập phát huy quyền tự chủ. Bên cạnh khung pháp lý, hệ thống chính sách cụ thể có vai trò trực tiếp trong việc hỗ trợ các trường triển khai tự chủ. Cần có chính sách tài chính hợp lý, cho phép các trường chủ động khai thác và sử dụng các nguồn thu hợp pháp, đồng thời Nhà nước tiếp tục bảo đảm nguồn đầu tư cơ bản cho những ngành, lĩnh vực đặc thù, gắn với nhiệm vụ chính trị, an sinh xã hội. Ngoài ra, chính sách về nhân sự cũng cần được điều chỉnh theo hướng tăng cường quyền tự quyết trong tuyển dụng, bổ nhiệm, đánh giá, khen thưởng và kỷ luật, qua đó, nâng cao trách nhiệm và tính cạnh tranh của đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý. Song song với đó, cần có cơ chế khuyến khích hợp tác công – tư, thúc đẩy liên kết giữa nhà trường với doanh nghiệp, viện nghiên cứu nhằm mở rộng nguồn lực và nâng cao hiệu quả tự chủ.
Thứ hai, đổi mới cơ chế quản lý.
Nhà nước cần tập trung đổi mới tư duy quản lý đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập theo hướng phù hợp với yêu cầu tự chủ. Thực tiễn cho thấy, trong một thời gian dài, cơ chế QLNN còn nặng về can thiệp chi tiết, vi mô dẫn tới tình trạng cơ sở giáo dục thiếu tính chủ động, sáng tạo, chưa phát huy hết tiềm năng nội tại. Do đó, yêu cầu cấp thiết là chuyển đổi cơ chế quản lý từ “quản lý chi tiết” sang “giám sát, định hướng”, từ “quản lý vi mô” sang “quản lý vĩ mô” nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các trường phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Cơ quan QLNN cần chủ yếu tập trung ban hành các văn bản pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chính sách khung; đồng thời, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ số đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục. Thay vì trực tiếp điều hành mọi hoạt động cụ thể, Nhà nước giữ vai trò định hướng phát triển, đặt ra các chuẩn mực và cơ chế giám sát, bảo đảm sự minh bạch, công khai và công bằng trong toàn hệ thống.
Tăng cường vai trò giám sát và kiểm định chất lượng giáo dục đại học công lập. Trong điều kiện tự chủ, các trường được quyền quyết định nhiều vấn đề quan trọng, như: tổ chức bộ máy, tuyển dụng nhân sự, mở ngành đào tạo, quản lý tài chính… Tuy nhiên, quyền đi đôi với trách nhiệm, vì vậy, Nhà nước cần thiết lập cơ chế giám sát hiệu quả để bảo đảm các cơ sở giáo dục vận hành đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Giám sát ở đây không có nghĩa là can thiệp hành chính chi tiết, mà là thông qua hệ thống kiểm định độc lập, minh bạch, gắn với trách nhiệm giải trình công khai trước xã hội. Đồng thời, Nhà nước cần khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp và người học trong quá trình giám sát, phản biện chính sách, qua đó, tạo nên sự đồng thuận, khách quan và công bằng trong quản lý giáo dục. Việc chuyển trọng tâm từ quản lý vi mô sang giám sát vĩ mô còn giúp giảm tải gánh nặng hành chính, hạn chế sự chồng chéo, trùng lặp trong quản lý, qua đó, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá.
Trong bối cảnh thực hiện tự chủ đại học, công tác kiểm tra, đánh giá giữ vai trò then chốt nhằm bảo đảm sự phát triển đúng định hướng, nâng cao chất lượng và uy tín của hệ thống giáo dục đại học công lập. Một trong những giải pháp quan trọng là “tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở giáo dục đại học để kịp thời nắm bắt các vướng mắc, khó khăn và xử lý các vi phạm trong quá trình tổ chức thực hiện các quy định về phân cấp, phân quyền và tự chủ trong QLNN; hoàn thiện cơ chế kiểm soát thẩm quyền, bảo đảm thẩm quyền đi đôi với trách nhiệm”4. Nhà nước cần thiết lập các tiêu chí, chuẩn mực rõ ràng để làm căn cứ kiểm tra; đồng thời, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong giám sát nhằm nâng cao tính kịp thời và hiệu quả. Việc kiểm tra không chỉ dừng lại ở khâu phát hiện sai phạm, hạn chế mà còn hướng đến việc tư vấn, hỗ trợ các cơ sở khắc phục khó khăn, hoàn thiện cơ chế quản lý nội bộ, tạo động lực để nhà trường nâng cao năng lực quản trị, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, để bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, các cơ sở giáo dục đại học công lập cần thực hiện nghiêm túc cơ chế công khai thông tin, nhất là trong các lĩnh vực như tuyển sinh, đào tạo, sử dụng ngân sách, quản lý tài sản công, hoạt động nghiên cứu và hợp tác quốc tế. Nhà nước phải quy định rõ ràng trách nhiệm giải trình của từng cấp quản lý trong các trường đại học; đồng thời, có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm nguyên tắc minh bạch, thiếu công khai hoặc gây thất thoát, lãng phí. Trên cơ sở đó, cần hình thành một văn hóa giải trình trong toàn hệ thống, coi đây là trách nhiệm tự giác và là thước đo năng lực quản trị đại học. Khi cơ chế kiểm tra, đánh giá, minh bạch và giải trình được thực hiện đồng bộ, các cơ sở giáo dục đại học công lập sẽ phát huy tối đa quyền tự chủ; đồng thời, bảo đảm sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước và xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục đại học trong thời kỳ mới.
Thứ tư, phát triển nguồn lực.
Trong quá trình đổi mới và thực hiện cơ chế tự chủ, nguồn lực con người đóng vai trò then chốt, quyết định chất lượng và uy tín của cơ sở giáo dục đại học công lập. Nhà nước, với tư cách là chủ thể quản lý, cần đặc biệt quan tâm đến việc phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý – những nhân tố trực tiếp tạo nên chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản trị đại học hiện đại. Việc phát triển nguồn lực này không chỉ là nhiệm vụ của từng trường mà còn cần có định hướng, cơ chế hỗ trợ từ phía Nhà nước nhằm tạo sự đồng bộ, bền vững và hiệu quả.
Trước hết, phải coi phát triển đội ngũ giảng viên là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, yêu cầu về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, năng lực nghiên cứu và khả năng ứng dụng công nghệ của giảng viên ngày càng cao. Do đó, Nhà nước cần ban hành chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên có trình độ tiến sỹ, giáo sư, phó giáo sư; đồng thời, tạo điều kiện cho họ tham gia các chương trình trao đổi học thuật, nghiên cứu quốc tế. Cùng với đó, phải có chế độ đãi ngộ, khuyến khích hợp lý để giảng viên toàn tâm, toàn ý cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
Song song với đội ngũ giảng viên, việc phát triển cán bộ quản lý trong các trường đại học cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Quản trị đại học trong bối cảnh tự chủ đòi hỏi người cán bộ quản lý phải có tầm nhìn chiến lược, năng lực hoạch định chính sách, khả năng điều hành linh hoạt và tư duy đổi mới sáng tạo. Nhà nước cần xây dựng các chương trình bồi dưỡng, nâng cao trình độ quản lý giáo dục đại học theo chuẩn mực quốc tế; đồng thời, tạo cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm công khai, minh bạch để hình thành đội ngũ lãnh đạo đủ phẩm chất, năng lực và uy tín. Bên cạnh đó, cần khuyến khích áp dụng mô hình quản trị tiên tiến, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhằm nâng cao hiệu quả điều hành và tính minh bạch.
5. Kết luận
Nâng cao hiệu quả QLNN đối với cơ sở giáo dục đại học công lập theo hướng tự chủ ở Việt Nam hiện nay là một yêu cầu khách quan, cấp thiết, gắn liền với tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ tạo lập môi trường pháp lý minh bạch, cơ chế quản lý linh hoạt, thúc đẩy các trường phát huy quyền tự chủ đi đôi với trách nhiệm giải trình; qua đó, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội. Nhà nước cần tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế giám sát, tăng cường công khai, minh bạch và khuyến khích sáng tạo trong quản lý. Đồng thời, các cơ sở giáo dục đại học cũng phải chủ động nâng cao năng lực quản trị, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên đáp ứng yêu cầu mới. Sự phối hợp hài hòa giữa QLNN và quyền tự chủ sẽ trở thành động lực quan trọng để giáo dục đại học công lập phát triển bền vững, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.
Chú thích:
1. Tự chủ đại học và những vấn đề đặt ra trong thực tiễn triển khai tại Việt Nam.https://kinhtevadubao.vn/tu-chu-dai-hoc-va-nhung-van-de-dat-ra-trong-thuc-tien-trien-khai-tai-viet-nam-22661.html
2. Vũ Tiến Dũng (2021). Tự chủ đại học ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (2021), tr.50 – 60.
3. Thực hiện quyền tự chủ đại học từ thực tiễn Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/05/14/thuc-hien-quyen-tu-chu-dai-hoc-tu-thuc-tien-dai-hoc-quoc-gia-tp-ho-chi-minh-thuc-trang-va-giai-phap
4. Nguyễn Văn Đại (2025). Phân quyền và tự chủ ở các cơ sở giáo dục đại học – thực trạng và hướng hoàn thiện. Tạp chí QLNN, số 355, (8/2025), tr. 44 – 47.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. HXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Quốc hội (2018). Luật Giáo dục đại học năm 2018.
3. Tự chủ đại học và những vấn đề đặt ra trong thực tiễn triển khai tại Việt Nam. https://kinhtevadubao.vn/tu-chu-dai-hoc-va-nhung-van-de-dat-ra-trong-thuc-tien-trien-khai-tai-viet-nam-22661.html