ThS. NSND Nguyễn Thị Thanh Thúy
Sở Văn hóa và Thể thao TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh toàn cầu, công nghiệp văn hóa ngày càng được xem là động lực quan trọng của phát triển kinh tế sáng tạo, vừa tạo ra giá trị kinh tế, vừa khẳng định bản sắc và sức mạnh mềm quốc gia. TP. Hồ Chí Minh là địa phương có tiềm năng lớn trong phát triển công nghiệp văn hóa nhưng vẫn đối mặt với nhiều thách thức về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực văn hóa – nghệ thuật. Bài viết phân tích thực trạng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực văn hóa – nghệ thuật chất lượng cao của TP. Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu đưa công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đến năm 2030.
Từ khóa: Công nghiệp văn hóa; nguồn nhân lực; văn hóa; nghệ thuật; TP. Hồ Chí Minh.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh toàn cầu, công nghiệp văn hóa được xem là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và nâng cao vị thế quốc gia. UNESCO (2013) nhấn mạnh: công nghiệp văn hóa không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn góp phần thúc đẩy bản sắc, sáng tạo và phát triển bền vững. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định, công nghiệp văn hóa vừa đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, vừa đảm nhiệm sứ mệnh quảng bá hình ảnh quốc gia, biến văn hóa trở thành “sức mạnh mềm” trong quan hệ quốc tế. Mỗi tác phẩm điện ảnh, âm nhạc, sản phẩm thủ công mỹ nghệ hay lễ hội văn hóa đều có thể trở thành “đại sứ văn hóa”, mang theo thông điệp về một đất nước vừa giàu truyền thống, vừa năng động và sáng tạo.
Bên cạnh đó, công nghiệp văn hóa giữ vai trò then chốt trong việc bảo tồn và phát huy di sản. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi nhiều giá trị truyền thống đứng trước nguy cơ mai một, các sản phẩm văn hóa đương đại, như: phim ảnh lấy cảm hứng từ lịch sử, thời trang cách điệu từ trang phục truyền thống hay công nghệ số hóa di tích đã “thổi hồn” vào di sản, giúp chúng trở nên gần gũi hơn với thế hệ trẻ. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, bởi chỉ khi giữ vững bản sắc riêng, một dân tộc mới có thể tự tin mở cửa ra thế giới.
TP. Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu, là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục và đổi mới sáng tạo lớn nhất cả nước. TP. Hồ Chí Minh được xác định là “đô thị sáng tạo” và là nơi có tiềm năng to lớn để phát triển công nghiệp văn hóa. Tuy nhiên, TP. Hồ Chí Minh đã hình thành được những tiền đề quan trọng nhưng vẫn còn những hạn chế, như: nhân lực sáng tạo còn thiếu, đầu tư tài chính chưa tương xứng, hạ tầng và không gian sáng tạo chưa đáp ứng nhu cầu, chính sách hỗ trợ chưa đồng bộ. Do đó, việc nghiên cứu, phân tích thực trạng nguồn nhân lực phát triển công nghiệp văn hóa tại TP. Hồ Chí Minh và đề xuất các giải pháp là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Thực trạng nguồn nhân lực phát triển công nghiệp văn hóa tại TP. Hồ Chí Minh
Nghị quyết số 202/2025/QH15 của Quốc hội về sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh năm 2025, theo đó, TP. Hồ Chí Minh sáp nhập với tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trở thành siêu đô thị với tổng diện tích tự nhiên 6.772,59 km2, quy mô dân số hơn 14 triệu người1. Thành phố hội tụ lực lượng lao động trẻ, đông đảo, có trình độ học vấn cao; đồng thời, sở hữu hệ thống cơ sở đào tạo văn hóa – nghệ thuật lớn nhất cả nước với các trường đại học chuyên ngành, nhạc viện, học viện nghệ thuật. Bên cạnh đó, Thành phố còn là địa bàn có năng lực huy động tài chính mạnh mẽ từ khu vực tư nhân và doanh nghiệp, cùng với mạng lưới không gian sáng tạo, trung tâm biểu diễn và sự kiện văn hóa ngày càng đa dạng.
Một là, về đào tạo nhân lực văn hóa – nghệ thuật.
TP. Hồ Chí Minh hiện quy tụ hệ thống cơ sở đào tạo văn hóa – nghệ thuật lớn nhất cả nước, với những đơn vị uy tín, như: Nhạc viện TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh TP. Hồ Chí Minh cùng nhiều cơ sở đào tạo, trung tâm, học viện tư thục trên lĩnh vực văn hóa. Đây là lợi thế đặc thù để Thành phố hình thành lực lượng nhân lực văn hóa – nghệ thuật đa ngành. Tuy nhiên, nếu so với tiềm năng và nhu cầu của một “siêu đô thị sáng tạo” trong tương lai, quy mô đào tạo hiện nay vẫn còn hạn chế. Chẳng hạn, Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh TP. Hồ Chí Minh chỉ tuyển khoảng 95 chỉ tiêu mỗi năm, hiện có chưa tới 600 sinh viên. Nhạc viện TP. Hồ Chí Minh nhiều năm liền chỉ có 2 – 3 sinh viên nhập học ngành Âm nhạc học. Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh cũng chỉ tuyển khoảng 240 – 305 chỉ tiêu/năm, trong khi có tới gần 2.500 thí sinh đăng ký dự thi năng khiếu.
Trường Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh có quy mô hơn 3.000 sinh viên nhưng chỉ tiêu hằng năm giữ ở mức 1.000, thấp hơn nhiều so với gần 26.000 nguyện vọng đăng ký năm 20252. Những con số này cho thấy, sự mất cân đối giữa nhu cầu xã hội ngày càng tăng đối với các lĩnh vực, như: công nghiệp biểu diễn, điện ảnh, quản trị sự kiện, công nghiệp sáng tạo nội dung số… và khả năng cung ứng thực tế từ các cơ sở đào tạo. Sự hạn chế về quy mô, cộng với chương trình đào tạo có nơi còn chậm cập nhật xu hướng mới dẫn đến thị trường lao động văn hóa – nghệ thuật chưa được cung ứng đủ, đặc biệt ở những ngành, nghề đang chiếm vị trí hàng đầu về xu hướng trên thế giới.
Không chỉ hạn chế về quy mô, chất lượng và nội dung đào tạo cũng chưa theo kịp xu hướng toàn cầu. Chương trình ở nhiều trường vẫn thiên về truyền thống, tập trung vào biểu diễn hoặc lý luận chuyên ngành hẹp, ít cập nhật các kỹ năng liên ngành và công nghệ mới, như: thiết kế đa phương tiện, sản xuất nội dung số hay quản trị sáng tạo. Trong khi đó, các quốc gia có nền công nghiệp văn hóa phát triển, như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore đều nhanh chóng tích hợp công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) và quản trị kinh doanh vào giảng dạy văn hóa – nghệ thuật, giúp sinh viên có khả năng làm việc trong những môi trường liên ngành và thích ứng với thị trường sáng tạo toàn cầu.
Những hạn chế trên phần nào dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên các chuyên ngành văn hóa – nghệ thuật sau khi tốt nghiệp chưa thể làm việc ngay ở môi trường làm việc chuyên nghiệp, thu nhập cao và có công trình sáng tạo đáp ứng các yêu cầu về nghệ thuật và thị hiếu ngày càng cao của công chúng. Một số khác lại rẽ sang các ngành nghề ngoài văn hóa – nghệ thuật, chủ yếu vì khó khăn trong việc ổn định nghề nghiệp và thu nhập khi gắn bó với nghệ thuật, đặc biệt trên lĩnh vực nghệ thuật truyền thống, dân gian. Thực trạng này không chỉ làm thất thoát nguồn lực trẻ mà còn khiến Thành phố đối mặt nguy cơ thiếu hụt lực lượng kế cận trong các lĩnh vực sáng tạo, trong đó có nghệ thuật truyền thống, như: cải lương, hát bội, xiếc, múa rối…
Hai là, về công tác phát triển nguồn nhân lực văn hóa – nghệ thuật.
Công tác xây dựng và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ, đào tạo nguồn nhân lực, phát hiện nhân tài luôn được Thành phố coi trọng và đã ban hành những văn bản cụ thể nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các đề án đào tạo, bồi dưỡng tài năng, nhân lực ngành văn hóa, nghệ thuật, tài năng thể thao, như: Đề án “Đào tạo tài năng trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật giai đoạn 2016 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030” (ban hành kèm theo Quyết định số 1341/QĐ-TTg ngày 08/7/2016); Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực văn hóa nghệ thuật ở nước ngoài đến năm 2030” (ban hành kèm theo Quyết định số 1437/QĐ-TTg ngày 19/7/2016); Thành ủy TP. Hồ Chí Minh đã ban hành Chương trình hành động số 09-CTrHĐ/TU ngày 16/3/2011 thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX về Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 – 2015; Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 22/2011/QĐ-UBND ngày 14/5/2011 về kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX về Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 – 2015 và Quyết định số 410/QĐ-UBND ngày 22/01/2014 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Chương trình nâng cao chất lượng, phát hiện bồi dưỡng năng khiếu, nhân tài lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, thể dục – thể thao TP. Hồ Chí Minh. Sở Văn hóa và Thể thao đã ban hành Kế hoạch số 1792/KH-SVHTTDL ngày 14/4/2014 về thực hiện Chương trình nâng cao chất lượng, phát hiện bồi dưỡng năng khiếu, nhân tài lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, thể dục – thể thao năm 2014 và định hướng những năm tiếp theo; Nghị quyết số 27/2023/NQ-HĐND ngày 08/12/2023 của Hội đồng nhân dân TP. Hồ Chí Minh về mức thu nhập chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt đối với lĩnh vực TP. Hồ Chí Minh có nhu cầu thu hút.
Theo thống kê năm 2024, Sở Văn hóa và Thể thao TP. Hồ Chí Minh hiện có hệ thống nhân sự gồm 130 công chức và 977 viên chức, trong đó có 248 người có trình độ trên đại học, chiếm 22,4%, 661 người có trình độ đại học, chiếm 59,71%, 198 người trình độ cao đẳng và trung cấp, chiếm 17,89%3. Ngoài ra, Thành phố có 10 tổ chức Hội Văn học nghệ thuật gồm các hội: Nhà văn, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Âm nhạc, Điện ảnh, Sân khấu, Kiến trúc sư, Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số, Múa và Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật với số lượng hội viên trên 6.500 người.
Tính đến 2024, Thành phố có 3 cá nhân đạt Giải thưởng Hồ Chí Minh, 33 cá nhân đạt Giải thưởng Nhà nước, 55 nghệ sĩ nhân dân, 230 nghệ sĩ ưu tú, 10 nghệ nhân nhân dân, 41 nghệ nhân ưu tú. Đây là lực lượng tinh hoa, góp phần quan trọng trong việc sáng tạo, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa – nghệ thuật dân tộc, đồng thời khẳng định vị thế của Thành phố là trung tâm sáng tạo lớn4. Bên cạnh đó, nhiều nghệ sĩ trẻ được đào tạo từ các cơ sở nghệ thuật uy tín như Nhạc viện, Đại học Văn hóa, Đại học Mỹ thuật hay đang hoạt động tại các đơn vị nghệ thuật, như: Nhà hát Giao hưởng – Nhạc – Vũ kịch thành phố (HBSO), Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang, Nhà hát nghệ thuật Hát bội, Trung tâm Nghệ thuật thành phố… đang dần khẳng định tên tuổi trong các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.
Tuy nhiên, lực lượng nghệ sĩ ở một số loại hình nghệ thuật truyền thống, như: cải lương, hát bội ngày càng bị thu hẹp, đội ngũ kế cận chưa đủ để tạo sức bật mới. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về chính sách phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng tài năng trẻ, cũng như cơ chế đãi ngộ thỏa đáng để giữ chân và phát huy nguồn nhân lực đặc thù này. Bên cạnh đó, nhân lực có chuyên môn sâu và tư duy sáng tạo đối với yêu cầu về chất lượng ngày càng tăng trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số đang là những vấn đề đặt ra đối với Thành phố.
Thời gian qua, TP. Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực trong công tác đào tạo nguồn nhân lực văn hóa – nghệ thuật cả ngắn hạn và dài hạn. Từ nguồn kinh phí của Chương trình phát triển nguồn nhân lực của Thành phố, nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng đã được tổ chức cho đội ngũ nghệ sĩ, diễn viên trẻ, đạo diễn nhằm phát hiện, tuyển chọn và nuôi dưỡng tài năng trong các lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, thể dục – thể thao. Nội dung đào tạo không chỉ chú trọng chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp mà còn nâng cao nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức, hướng tới xây dựng lực lượng chuyên gia vững vàng trong từng chuyên ngành. Đặc biệt, đối với các loại hình nghệ thuật truyền thống, như: cải lương, hát bội, xiếc, múa rối, Thành phố đã áp dụng phương thức kết hợp giữa đào tạo truyền nghề và đào tạo chính quy, bước đầu đem lại kết quả khả quan, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị nghệ thuật truyền thống.
Song song với đó, Thành phố đã chỉ đạo các sở, ngành chức năng tham mưu, huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực văn hóa, vốn trí tuệ và năng lực sáng tạo, đồng thời ứng dụng công nghệ hiện đại để sản xuất nhiều sản phẩm và dịch vụ văn hóa đa dạng. Các lĩnh vực thế mạnh của Thành phố, như: âm nhạc, điện ảnh, thời trang được ưu tiên phát triển, vừa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa – nghệ thuật của Nhân dân, vừa mở rộng thị trường ra các tỉnh, thành phố trên cả nước và vươn ra quốc tế.
Đặc biệt, ngay sau Đại hội đại biểu Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh lần thứ X nhiệm kỳ 2020 – 2025, Thành phố đã ban hành nhiều văn bản nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ và cán bộ quản lý văn hóa – nghệ thuật. Những văn bản này thể hiện rõ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của thành phố, qua đó, góp phần nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí và đặc trưng của văn hóa – nghệ thuật đối với cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị. Đây là cơ sở để bảo đảm công tác phát triển nguồn nhân lực văn hóa – nghệ thuật của TP. Hồ Chí Minh được tiến hành đồng bộ, vừa giữ gìn giá trị truyền thống, vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển công nghiệp văn hóa trong giai đoạn mới.
3. Yêu cầu và giải pháp phát triển nguồn nhân lực văn hóa – nghệ thuật chất lượng cao tại TP. Hồ Chí Minh
Với mục tiêu xây dựng và thực hiện có hiệu quả, tạo bước đột phá mạnh mẽ trong thu hút và sử dụng người có năng khiếu thuộc lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp văn hóa tại TP. Hồ Chí Minh, công tácđào tạo, bồi dưỡng phát triển năng khiếu gắn với nhu cầu sử dụng được các cấp ủy, cơ quan, đơn vị đặc biệt quan tâm. Yêu cầu đối với nguồn nhân lực văn hóa – nghệ thuật không chỉ dừng ở trình độ chuyên môn mà còn mở rộng ra nhiều phương diện:
(1) Cần phát huy tính sáng tạo và khả năng liên ngành, biết kết hợp nghệ thuật với công nghệ, quản trị và kinh doanh để tạo ra những sản phẩm vừa đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ, vừa có giá trị thị trường.
(2) Có năng lực số hóa và hội nhập quốc tế, thành thạo công nghệ số, đủ khả năng làm việc trong môi trường toàn cầu; đồng thời, tham gia hiệu quả vào các mạng lưới sáng tạo quốc tế.
(3) Có trách nhiệm bảo tồn và đổi mới di sản, không chỉ lưu giữ mà còn sáng tạo lại, đưa các loại hình truyền thống như cải lương, hát bội đến gần hơn với công chúng đương đại, qua đó lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc.
(4) Cần thể hiện tính chuyên nghiệp và bản lĩnh chính trị, ngoài kiến thức và kỹ năng chuyên môn còn phải có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm xã hội để bảo đảm định hướng về phát triển văn hóa của Đảng và Nhà nước.
Để đáp ứng những yêu cầu trên, TP. Hồ Chí Minh đang triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới toàn diện công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực văn hóa – nghệ thuật thông qua việc mở rộng quy mô tuyển sinh, nhất là ở các lĩnh vực đang có những đóng góp hiệu quả, như: công nghiệp sáng tạo nội dung, công nghiệp biểu diễn, điện ảnh, truyền thông…; đồng thời, xây dựng chương trình theo hướng liên ngành (nghệ thuật – công nghệ – quản trị) và tăng cường gắn kết với thực tiễn bằng hoạt động thực hành, dự án, hợp tác doanh nghiệp nhằm bảo đảm sinh viên đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường lao động.
Thứ hai, đẩy mạnh phát hiện và bồi dưỡng tài năng trẻ bằng cách duy trì và phát triển các quỹ hỗ trợ, kết hợp hình thức đào tạo chính quy với truyền nghề trong các lĩnh vực nghệ thuật truyền thống; đồng thời, tạo môi trường cho thế hệ trẻ tham gia liên hoan, festival và workshop quốc tế để rèn luyện kỹ năng và khẳng định bản thân.
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập toàn cầu thông qua việc mở rộng các chương trình trao đổi sinh viên, giảng viên, nghệ sĩ với các học viện nghệ thuật uy tín trong khu vực và trên thế giới; tích cực tham gia mạng lưới “thành phố sáng tạo” của UNESCO để mở rộng cơ hội giao lưu, học hỏi và quảng bá mạnh mẽ sản phẩm văn hóa – nghệ thuật của TP. Hồ Chí Minh.
Thứ tư, hoàn thiện chính sách đãi ngộ và xây dựng môi trường sáng tạo thuận lợi với việc ban hành cơ chế lương thưởng và hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo phù hợp; đồng thời, hình thành các không gian sáng tạo, công viên văn hóa – nghệ thuật và trung tâm đổi mới sáng tạo theo mô hình quốc tế để tạo điều kiện cho nhân lực văn hóa – nghệ thuật phát triển bền vững.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với phát triển nhân lực văn hóa – nghệ thuật thông qua việc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá năng lực, hoàn thiện hệ thống kiểm định và giám sát chất lượng đào tạo; đồng thời, tích hợp công tác phát triển nhân lực văn hóa – nghệ thuật vào chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa của TP. Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Chú thích:
1. Thành phố Hồ Chí Minh: Khát vọng lớn cùng cơ hội lịch sử. https://nhandan.vn/thanh-pho-ho-chi-minh-khat-vong-lon-cung-co-hoi-lich-su-post891095.html
2. Trường Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh tuyển sinh 1.000 chỉ tiêu hệ Đại học chính quy năm 2024. https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/truong-dai-hoc-van-hoa-tphcm-tuyen-sinh-1-000-chi-tieu-he-dai-hoc-chinh-quy-nam-2024-1491918309?utm_source=chatgpt.com.
3, 4. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành văn hóa và thể thao Thành phố Hồ Chí Minh trong kỷ nguyên mới. https://khoahocchinhtri.vn/phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-nganh-van-hoa-va-the-thao-thanh-pho-ho-chi-minh-trong-ky-nguyen-moi/?
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2014). Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
2. Thủ tướng Chính phủ (2016). Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
3. Nguyễn Hữu Dũng (2008). Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam – vấn đề và giải pháp. H. NXB Chính trị quốc gia.
4. Nguồn lực cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/826476/nguon-luc-cho-phat-trien-cac-nganh-cong-nghiep-van-hoa-o-viet-nam.aspx
5. Thành phố Hồ Chí Minh nỗ lực phát triển văn hóa, nghệ thuật trong bối cảnh mới. https://chinhtrivaphattrien.vn/thanh-pho-ho-chi-minh-no-luc-phat-trien-van-hoa-nghe-thuat-trong-boi-canh-moi-a8802.html
6. Phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp.https://chinhtrivaphattrien.vn/phat-trien-cong-nghiep-van-hoa-o-viet-nam-hien-nay-thuc-trang-va-giai-phap-a8624.html
7. Trần Ngọc Thêm (2016). Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai. TP. Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa – Văn nghệ.
8. UNESCO (2013). Creative Economy Report 2013: Widening Local Development Pathways. Paris: UNESCO & UNDP.
9. UNESCO. (2009). Framework for Cultural Statistics (FCS). Montreal: UNESCO Institute for Statistics.