Xây dựng đội ngũ công chức cấp xã ở TP. Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong bối cảnh phát triển mới

TS. Bùi Ngọc Hiền
Học viện Cán bộ TP. Hồ Chí Minh
ThS. Phạm Văn Linh
Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Công chức cấp xã có vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta. Với vị trí công tác của mình, họ là những người gần dân nhất, hiểu dân nhất, trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ, công việc cụ thể về tuyên truyền, tổ chức thực thi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền, phân cấp và cung cấp dịch vụ công. Trong bối cảnh phát triển mới cùng với việc thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp đang đặt ra những yêu cầu mới đối với đội ngũ công chức cấp xã. Trên cơ sở đó, bài viết phân tích bối cảnh hiện tại cùng những yêu cầu và thách thức đang đặt ra, từ đó, đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm xây dựng đội ngũ công chức cấp xã theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Từ khóa: Công chức cấp xã, chính quyền địa phương hai cấp, bối cảnh phát triển mới, TP. Hồ Chí Minh.

1. Đặt vấn đề

Cấp xã (xã, phường, đặc khu) là cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền hiện nay nhưng có vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị, bởi cấp xã là cấp gần dân nhất, là cầu nối trực tiếp giữa hệ thống chính trị với Nhân dân; lãnh đạo và quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế – xã hội trên địa bàn; bảo đảm để các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện; chăm lo và bảo đảm quyền và lợi ích của Nhân dân. Thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, chính quyền xã, phường, đặc khu chuyển từ mô hình “chính quyền quản lý” sang mô hình “chính quyền phục vụ”, lấy người dân là trung tâm, chủ động nắm bắt, giải quyết các vấn đề phát sinh và liên quan đến cá nhân, tổ chức ngay từ cơ sở1; “chủ động nắm, điều hành kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh”2. Theo đó, cán bộ, công chức cấp xã có vai trò quan trọng, là chủ thể trực tiếp tuyên truyền, tổ chức thực thi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã và cung cấp các dịch vụ công trên địa bàn. Họ là những người đại diện cho hệ thống chính trị gần dân nhất, am hiểu dân nhất và cũng là những người có vai trò quyết định hiệu quả lãnh đạo, quản lý nhà nước của hệ thống chính trị cấp xã.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ khái niệm: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ rõ, để đặt ra chính sách đúng… cán bộ là cái gốc của mọi việc”3. Theo Người, cán bộ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, vì “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”4. Chính vì vậy, muốn có cán bộ tốt, khâu đầu tiên là phải đào tạo, huấn luyện cán bộ, trang bị cho họ kiến thức về mọi mặt.

Trong bối cảnh phát triển mới cùng với việc chuyển đổi, xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung và đội ngũ công chức cấp xã nói riêng bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ luôn có ý nghĩa quan trọng và cần thiết.

2. Một số thách thức đối với công chức cấp xã trong bối cảnh phát triển mới

Bối cảnh phát triển mới, môi trường tác nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng có nhiều thay đổi. Việc khẳng định vai trò, vị trí của đội ngũ công công chức cấp xã trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp đã, đang và sẽ đặt ra nhiều thách thức mới với những yêu cầu mới, phi truyền thống đối với đội ngũ công chức cấp xã.

Thứ nhất, cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị đã tạo ra thông điệp mạnh mẽ đối với từng cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cũng như từng cán bộ, công chức, viên chức phải đổi mới mạnh mẽ về tư duy và thực hiện các hoạt động công vụ cụ thể. Với việc sắp xếp, tinh gọn lại bộ máy, tổ chức thực hiện mô hình chính quyền ba cấp cùng với việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng minh định quyền hạn, trách nhiệm của Trung ương, cấp tỉnh và cấp xã; thực hiện phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” dẫn đến thay đổi cấu trúc quyền lực nhà nước; thay đổi vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp xã.

Mục tiêu của việc sắp xếp, xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp là xây dựng một nền hành chính hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững. Từ đó, nâng cao tính minh bạch, thúc đẩy cải cách hành chính, tăng chỉ số hài lòng và sự giám sát của Nhân dân. Vì vậy, đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ công chức cấp xã phải nhanh chóng chuyển đổi để thích ứng, chủ động và sáng tạo trong các hoạt động thực thi công vụ.

Theo chủ trương, định hướng của Đảng, chính quyền địa phương cấp xã chuyển từ mô hình “chính quyền quản lý” sang mô hình “chính quyền phục vụ”, lấy người dân là trung tâm, chủ động nắm bắt, giải quyết các vấn đề phát sinh và liên quan đến cá nhân, tổ chức ngay từ cơ sở5. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước đã từng bước luật hóa, quy định thẩm quyền của cấp tỉnh và cấp xã chủ động theo hướng phân quyền cho cấp xã quản lý, tổ chức phát triển kinh tế – xã hội ở cơ sở… Như vậy, những chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đặc biệt là chuyển từ mô hình chính quyền địa phương ba cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp (cấp tỉnh, cấp xã), trọng tâm là chuyển phương thức tổ chức các hoạt động công vụ từ chủ yếu thừa hành tác nghiệp sang chủ động, kiến tạo phát triển cùng với chịu trách nhiệm trong các hoạt động của chính quyền. Thực tế này, đã đặt ra các yêu cầu mới đối với đội ngũ cán bộ, công chức trong chính quyền địa phương nói chung và công chức cấp xã nói riêng.

Thứ hai, những vấn đề, thách thức đang đặt ra trong quá trình chuyển đổi tư duy, nhận thức, hoạt động tác nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Dường như dần xuất hiện khoảng cách ngày càng lớn giữa năng lực nhận diện vấn đề công việc, tốc độ cũng như tính hiệu quả trong phản ứng chính sách, giải quyết các vấn đề về kinh tế – xã hội so với yêu cầu thực tiễn. Thực tế này phản ánh mạnh mẽ về sự khác biệt giữa môi trường tác nghiệp hiện nay của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức so với giai đoạn trước đây. Vì vậy, đã đặt ra yêu cầu, thách thức mới, phi truyền thống đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng trong thực hiện các vai trò, nhiệm vụ của mình đối với sự phát triển của địa phương và đất nước.

Thứ ba, mức độ quan tâm và năng lực kiểm soát của công dân đối với Nhà nước tăng lên. Trình độ dân trí ngày càng được nâng lên cùng với xu hướng chuyển đổi số, đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), công dân ngày càng quan tâm, khai thác các hoạt động quản lý nhà nước nhiều hơn để bảo vệ quyền lợi và phát triển bản thân. Qua đó, họ cũng dễ dàng thực hiện quyền kiểm soát của mình đối với hoạt động quản lý nhà nước trong môi trường số với tư cách là đối tượng phục vụ, đối tác của Nhà nước, của các cấp chính quyền. Do đó, hoạt động tác nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng cần phải thay đổi lớn để ngày càng hoạt động minh bạch, hiệu lực, hiệu quả; hướng tới phục vụ công dân, xã hội cũng như chịu sự giám sát của xã hội trên môi trường số.

Bên cạnh đó, khu vực ngoài Nhà nước không ngừng lớn mạnh cho phép các chủ thể ngoài Nhà nước tham gia cùng Nhà nước, chính quyền địa phương giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội; thay Nhà nước, chính quyền địa phương đảm nhiệm một số hoạt động thuộc lĩnh vực công. Nhà nước, chính quyền địa phương sẽ chịu nhiều áp lực hơn khi bị chi phối, tác động hoặc cạnh tranh trực tiếp từ khu vực ngoài Nhà nước trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình hay trong cung ứng các dịch vụ công vốn thuộc trách nhiệm của Nhà nước, của chính quyền địa phương.

Thứ tư, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế đã và đang mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức mới trong phát triển cho các quốc gia, vùng lãnh thổ. Nó đang tác động mạnh mẽ, sâu rộng đến hầu hết các lĩnh vực, dẫn đến cuộc cách mạng chuyển đổi số có nhiều thay đổi lớn trong đời sống kinh tế – xã hội. Các dạng thức, biến thể trong đời sống kinh tế – xã hội thay đổi nhanh chóng cùng với sự phát triển của kinh tế số, xã hội số… dẫn đến có nhiều sự thay đổi khác biệt, mới mẻ, phi truyền thống trong từng lĩnh vực. Sự chuyển đổi đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng phải liên tục tư duy để luôn bảo đảm tính chủ động trong các hoạt động quản lý, tổ chức phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.

Đơn cử, như trong nền kinh tế số, có 5 thách thức đối với các nhà hoạch định chính sách trong nền kinh tế vô hình, như6: (1) Xác định “khuôn khổ tốt” để giải quyết tranh chấp tài sản vô hình; (2) Xây dựng các chính sách tương trợ trong nền kinh tế vô hình; (3) Chính sách đầu tư và tài chính cho nền kinh tế vô hình; (4) Đầu tư công trong nền kinh tế vô hình; (5) Giải quyết bất bình đẳng trong nền kinh tế vô hình… Những vấn đề này đặt ra trong phát triển, ứng dụng AI, “nền kinh tế ý định”, quản lý xã hội số… cũng làm gia tăng các vấn đề, thách thức trong tư duy và các hoạt động quản lý, tổ chức phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.

3. Bước đầu xây dựng đội ngũ công chức cấp xã của TP. Hồ Chí Minh trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, trên cơ sở đó, sắp xếp toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của (TP. Hồ Chí Minh, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và tỉnh Bình Dương) hợp thành TP. Hồ Chí Minh hiện nay có diện tích tự nhiên là: 6.772,59 km2, quy mô dân số: 14.002.598 người; giáp các tỉnh Đồng Nai, Đồng Tháp, Lâm Đồng, Tây Ninh và Biển Đông7.

Việc sáp nhập đã tạo ra không gian phát triển kinh tế – xã hội lớn phát huy hiệu quả kết nối vùng, khai thác tiềm năng liên kết, có quy mô kinh tế vượt trội, đủ khả năng vươn tầm khu vực. Hiện nay, TP. Hồ Chí Minh có 168 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 113 phường, 54 xã và đặc khu Côn Đảo8 và có quy mô đơn vị hành chính cấp xã lớn nhất cả nước, đa dạng từ đô thị, nông thôn và biển đảo.

Từ ngày 01/7/2025, TP. Hồ Chí Minh chính thức vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Hệ thống chính trị của 168 xã, phường, đặc khu đã đi vào hoạt động với vai trò, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền mới. Đảng bộ, chính quyền Thành phố (trước đó là TP. Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) đã kịp thời bảo đảm các điều kiện cần thiết cho hệ thống chính trị các xã, phường, đặc khu.

Về nhân sự, Thành phố đã bố trí 22.529 người, trong đó: khối Đảng, đoàn thể là 3.878 người (TP. Hồ Chí Minh cũ: 1.590 người, tỉnh Bình Dương cũ: 1.457 người, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũ: 831 người); khối chính quyền: 12.119 người (TP. Hồ Chí Minh cũ: 9.562 người, tỉnh Bình Dương cũ là 1.862 người, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũ: 1.423 người); số người hoạt động không chuyên trách: 6.532 người (TP. Hồ Chí Minh cũ: 4.907 người, tỉnh Bình Dương cũ: 1.211 người, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũ: 414 người). Công tác quản lý, sử dụng công chức cấp xã đã được Ban Thường vụ Thành ủy, Ủy ban nhân dân (UBND), chủ tịch UBND Thành phố đã ủy quyền cho các cơ quan, địa phương chủ động thực hiện.

Để bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức, hành động và nâng cao năng lực thực thi công vụ, Thành phố đã tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng và cập nhật các quy định pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã. Tổ chức hội nghị tập huấn cho 160 cán bộ tại điểm cầu Thành phố và 1.223 cán bộ tại 168 điểm cầu cấp xã, với 3 chuyên đề và phần giải đáp trực tiếp các vướng mắc trong thực hiện thủ tục hành chính khi chuyển đổi sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Đồng thời, UBND Thành phố đã xây dựng kế hoạch khảo sát, đánh giá, hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn trong quá trình sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã và vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Chỉ đạo các sở, ngành tiếp tục tổng hợp các nội dung giải đáp, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị của UBND phường, xã, đặc khu…

Qua gần 3 tháng triển khai, hệ thống chính trị của các phường, xã, đặc khu của Thành phố đã dần ổn định; bộ máy chính quyền dần kiện toàn, vận hành thông suốt; đội ngũ cán bộ, công chức từng bước thích ứng với mô hình mới, thái độ phục vụ tận tình, chuyên nghiệp; các thủ tục hành chính được cắt giảm, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và hướng tới “phi địa giới” tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp9. Ngoài ra, việc đẩy mạnh chuyển đổi số, một số địa phương còn thực hiện hàng loạt các mô hình phục vụ Nhân dân, sử dụng robot hướng dẫn và phục vụ người dân khi đến công sở thực hiện các thủ tục hành chính… Tuy nhiên, quá trình vận hành mô hình chính quyền hai cấp cũng còn bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc:

Thứ nhất, tình trạng quá tải trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các phòng chuyên môn cấp xã. Theo quy định, Phòng Kinh tế (đối với xã, đặc khu) hoặc Phòng Kinh tế, Hạ tầng và Đô thị (đối với phường) tham mưu UBND xã 93 nhiệm vụ; Phòng Văn hóa – Xã hội tham mưu UBND xã 95 nhiệm vụ. Thực tế này đã làm cho khối lượng công việc, nhiệm vụ cụ thể của đội ngũ công chức cấp xã tăng lên rất nhiều, do đó, đòi hỏi đội ngũ công chức phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, kỹ năng tổng hợp; khả năng ứng dụng công nghệ số, các giải pháp thông minh trong tác nghiệp và khả năng xử lý các tình huống phát sinh một cách hiệu quả.

Thứ hai, việc thực hiện hướng dẫn về tổ chức bộ máy và bố trí công chức tại UBND cấp xã chưa tương xứng với khối lượng công việc. Theo Nghị định số 150/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 các phòng chuyên môn thuộc UBND cấp xã có 1 trưởng phòng và 1 phó trưởng phòng, riêng Trung tâm Phục vụ hành chính công do phó chủ tịch UBND xã kiêm nhiệm làm giám đốc và có 1 phó giám đốc. Bình quân số lượng công chức của một phòng chuyên môn cấp xã hiện nay được bố trí khoảng từ 5 – 7 công chức.

Như vậy, tính bình quân theo đầu nhiệm vụ, trung bình mỗi công chức phải phụ trách từ 4 – 9 nhóm nhiệm vụ, trong đó mỗi nhóm có nhiều nội dung công việc chi tiết, phức tạp và với khối lượng lớn, dẫn đến tình trạng quá tải về công việc được giao chưa hoàn thành theo tiến độ, ảnh hưởng đến người dân và doanh nghiệp cũng như hiệu quả công việc của công chức cấp xã. Bên cạnh đó, việc biên chế cụ thể số lượng, phòng chuyên môn tuy bảo đảm tính rõ ràng, cụ thể, song cũng làm cho hệ thống chính trị cấp xã gặp khó khăn khi điều chuyển giữa các bộ phận, tăng cường cho những đơn vị quá tải nhiệm vụ…

Thứ ba, một số công chức cấp xã chưa được bố trí đúng chuyên môn, nghiệp vụ dẫn đến việc nắm bắt, tham mưu cũng như thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh đó, quá trình thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cũng gặp một số khó khăn, như: chưa có hướng dẫn cụ thể về thủ tục hành chính, cách thức tháo gỡ đối với những nhiệm vụ chưa được giải quyết dứt điểm vốn thuộc cấp huyện nay chuyển về cấp xã; phân định quyền hạn, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp trong thực hiện một số vấn đề, nhiệm vụ có tính chất liên ngành…

4. Một số giải pháp xây dựng đội ngũ công chức cấp xã của Thành phố ngang tầm nhiệm vụ

Xây dựng khung năng lực của công chức phù hợp với từng vị trí việc làm trong hệ thống chính trị cấp xã trên cơ sở quy định pháp luật, hướng dẫn của cấp trên và tình hình thực tiễn. Đảng bộ và chính quyền Thành phố cần kịp thời xác định khung năng lực cụ thể đối với từng vị trí việc làm của công chức cấp xã phù hợp với yêu cầu của mô hình chính quyền địa phương hai cấp, chuyển trọng tâm các hoạt động công vụ từ chủ yếu thừa hành tác nghiệp sang chủ động quản lý, điều hành phát triển kinh tế – xã hội, phục vụ người dân, doanh ngiệp. Cần xác định những phẩm chất, năng lực cụ thể đối với từng vị trí việc làm, trong đó chú trọng các nhóm phẩm chất, năng lực sau:

Một là, xây dựng tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức của công chức cấp xã. Trong đó, cần quy định cụ thể những tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ; về tinh thần phục vụ và tinh thần tận hiến, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và sáng tạo vì lợi ích chung của công chức cấp xã… Đồng thời,

xây dựng nhóm năng lực cơ bản, cốt lõi là những tiêu chuẩn về tư duy và những kiến thức, kỹ năng giúp công chức chủ động, sẵn sàng quản lý và tác nghiệp trong môi trường chuyển đổi. Nhóm năng lực này, cần quan tâm đến chuyển đổi trong tư duy của đội ngũ công chức hướng đến tư duy hệ thống, tư duy số, bảo đảm các kiến thức, kỹ năng hướng tới bảo đảm tính chủ động, thích ứng hiệu quả của công chức cấp xã trong môi trường mới, như: kiến thức, kỹ năng về quản trị thay đổi; quản trị địa phương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp; quản trị số; năng lực dự báo phát triển và nhận diện vấn đề công…

Hai là, xây dựng nhóm năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, bao gồm: các kiến thức, kỹ năng cơ bản để công chức tham gia quản lý kinh tế – xã hội theo từng vị trí việc làm. Nhóm năng lực này hướng đến các tiêu chí cơ bản về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và các kỹ năng tác nghiệp tương ứng với từng vị trí việc làm…

Ba là, xây dựng nhóm năng lực bổ trợ hướng đến quy định các tiêu chí về năng lực, kiến thức, kỹ năng cần đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính nhà nước, hướng đến trang bị các kiến thức liên ngành, kiến thức mới; kỹ năng kết nối, tương tác, quản lý xã hội trên môi trường số…

Bốn là, xây dựng kế hoạch tuyển dụng, đánh giá, sử dụng công chức cấp xã. Trên cơ sở khung năng lực của công chức cấp xã, Thành phố cần tổ chức thực hiện một cách hiệu quả các phương thức tuyển dụng để lựa chọn được những nhân sự có chất lượng vào làm việc ở các vị trí việc làm của công chức cấp xã. Các tiêu chuẩn, tiêu chí tuyển dụng cần cụ thể, rõ ràng, dễ dàng nhận biết, đánh giá phù hợp với từng vị trí việc làm để hạn chế tối đa yếu tố chủ quan trong quá trình tuyển dụng. Nhất quán trong thực hiện quan điểm “vì việc chọn người” cũng như vận dụng các quy định, hướng dẫn của cấp trên để thu hút và tuyển dụng được những nhân sự chất lượng, phù hợp vào các vị trí việc làm của công chức cấp xã.

Thực hiện đánh giá công chức cấp xã khoa học, khách quan, hiệu quả để hướng tới nâng cao chất lượng công chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động công vụ. Xây dựng bộ chỉ số đánh giá hiệu suất công việc (KPI) của công chức cấp xã bảo đảm đúng quy định và phù hợp với thực tiễn. Theo đó, bộ chỉ số đánh giá hiệu suất công việc của công chức xã, cần: (1) Riêng, phù hợp và toàn diện về các hoạt động, nhiệm vụ của mỗi vị trí việc làm của công chức cấp xã; (2) Các chỉ số có thang đo định lượng cụ thể (hạn chế những chỉ số đánh giá định tính) để bảo đảm tính khách quan trong đánh giá công chức cấp xã; (3) Chú trọng các chỉ số đánh giá tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tận hiến vì lợi ích chung của công chức cấp xã. Ứng dụng công nghệ số trong theo dõi, đánh giá bảo đảm tính khách quan, công bằng, minh bạch, gắn đánh giá công chức cấp xã với các chế độ đãi ngộ, thi đua, đề bạt bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý cấp xã vừa đáp ứng về năng lực lãnh đạo, quản lý vừa am tường chuyên môn, nghiệp vụ. Xây dựng tiêu chí cụ thể để phân biệt năng lực chuyên môn của công chức với năng lực lãnh đạo, quản lý để đề bạt, bầu, bổ nhiệm cán bộ, công chức xã, tránh đánh đổi những công chức có chuyên môn giỏi lấy những cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý yếu. Thực hiện tập sự chức danh cán bộ cấp xã và mở rộng việc tổ chức thi tuyển để lựa chọn, bổ nhiệm các chức danh cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý cấp xã.

Hoàn thiện cơ chế phát huy vai trò giám sát của Nhân dân, của các bên liên quan trong tuyển dụng, đánh giá, sử dụng công chức cấp xã.

Năm là, xây dựngkế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong trong hình mới; đồng thời, lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng tiền công vụ cho những người mới tuyển dụng.

Nâng cao năng lực dự báo của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức và các cơ quan quản lý công chức kết hợp với khảo sát nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của công chức cấp xã để xác định những đơn vị kiến thức cần đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật.

Xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng bảo đảm tính hiện đại, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp và yêu cầu tác nghiệp trong bối cảnh phát triển mới. Đồng thời, chú trọng dự báo, xây dựng các chương trình bồi dưỡng để góp phần đổi mới tư duy, cập nhật kiến thức, kỹ năng quản trị trong bối cảnh chuyển đổi.

Thiết kế các chương trình bồi dưỡng mở, trực tuyến để bồi dưỡng theo các chức danh, vị trí việc làm cho những người được quy hoạch hoặc điều chuyển, bổ nhiệm một cách kịp thời, thuận tiện. Các chương trình bồi dưỡng công chức cấp xã cũng cần được nghiên cứu, thiết kế theo hướng liên thông giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, kết hợp giảng dạy trực tiếp, trực tuyến để công chức cấp xã có thể học ở mọi thời điểm phù hợp với điều kiện công việc, điều kiện cá nhân; có thể tích lũy các đơn vị kiến thức trong những điều kiện không cho phép họ tham gia học tập liên tục.

Phát huy hình thức bồi dưỡng tại cơ quan, đơn vị theo phương thức “truyền nghề” để kịp thời tập huấn, bồi dưỡng về các quy trình, thủ tục, thao tác tác nghiệp mới… Khuyến khích tinh thần tự học tập, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công chức cấp xã.

Sáu là, xây dựng cơ chế, chính sách và môi trường công vụ chuyên nghiệp, hiện đại, trong đó hoàn thiện chính sách lương, thu nhập của công chức theo khối lượng, hiệu quả công việc. Bên cạnh đó, chế độ lương, thưởng cần tạo ra động lực cạnh tranh công bằng, minh bạch giữa các công chức trong thực thi công vụ.

Xây dựng môi trường công vụ sáng tạo để khai mở, khuyến khích tinh thần đổi mới sáng tạo và kịp thời tôn vinh để đưa các ý tưởng sáng tạo thành hành động thực tiễn. Tổ chức các giải thưởng hay các hình thức tôn vinh phù hợp theo từng lĩnh vực để kịp thời tôn vinh, khen thưởng những công chức cấp xã có nhiều sáng tạo, đổi mới, nâng cao hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Thiết lập cơ chế khoa học, hiệu quả để thường xuyên rà soát, thanh lọc đội ngũ công chức cấp xã.

Thay đổi tư duy về môi trường tác nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng. Nhà nước cần bảo đảm về không gian pháp lý bằng hệ thống thể chế, chính sách kiến tạo phát triển và hệ thống quy phạm pháp luật phục vụ quản lý, kiểm soát hiệu quả kinh tế – xã hội; không gian thực là cơ sở vật chất, điều kiện tác nghiệp; không gian số với điều kiện hạ tầng số, dữ liệu số, văn hóa số… Cùng với đó, bảo đảm môi trường làm việc của hệ thống chính trị cấp xã khoa học, chuyên nghiệp hiệu lực, hiệu quả; đồng thời, có cơ chế, chính sách giữ chân được những người thực sự có năng lực, tận tâm cống hiến trong hệ thống chính trị cấp xã.

4. Kết luận

Công chức cấp xã có vai trò quan trọng, quyết định hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cơ sở – cấp gần dân nhất của hệ thống chính trị nước ta. Trong bối cảnh phát triển mới tạo ra môi trường tác nghiệp mới với nhiều khó khăn, thách thức đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng. Vì vậy, xây dựng đội ngũ công chức cấp xã ngang tầm nhiệm vụ là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng và cấp bách; là điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã trong môi trường chuyển đổi. Yêu cầu, nhiệm vụ này cần được Nhà nước, chính quyền các cấp quan tâm, thực hiện đồng bộ với nhiều giải pháp với lộ trình, điều kiện phù hợp.

Chú thích:
1, 5. Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết Nghị quyết số 18 (2025). Kế hoạch số 47-KH/BCĐ ngày 14/4/2025 về thực hiện sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã và tổ chức hệ thống chính quyền địa phương hai cấp.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Kết luận số 183-KL/TW ngày 01/8/2025 về tích cực triển khai vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp, chuyển mạnh cấp cơ sở sang chủ động nắm, điều hành kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh.
3, 4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia. tr. 309, 313.
7. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
8. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2025). Nghị quyết số 1685/NQ-UBTVQH15 ngày 16/6/2025 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của TP. Hồ Chí Minh năm 2025.
9. Bộ máy thông suốt, thực hiện song song hai nhiệm vụ quan trọng. https://www.vietnamplus.vn/bo-may-thong-suot-thuc-hien-song-song-hai-nhiem-vu-quan-trong-post1055448.vnp
Tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ (2025). Nghị định số 150/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Ủy ban nhân dân xã, phường, đặc khu thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
2. Tỉnh ủy Bình Dương (2025). Quyết định số 2260-QĐ/TU ngày 29/6/2025 về việc giao biên chế tạm thời cho các cơ quan, đơn vị khối Đảng, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và chính quyền địa phương 36 xã, phường.
3. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2025a). Quyết định số 3418/QĐ-UBND ngày 30/6/2025 về giao biên chế công chức hành chính để bố trí nhân sự thực hiện nhiệm vụ tại Hội đồng nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp xã theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã TP. Hồ Chí Minh năm 2025; giao số lượng người làm việc hưởng lương từ ngân sách nhà nước và nguồn thu sự nghiệp trong các đơn vị sự nghiệp công lập giao Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý; chuyển số lượng nhân sự thực tế có mặt (ngoài chỉ tiêu biên chế công chức, viên chức) cho Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý và giải quyết chế độ, chính sách theo quy định.
4. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2025b). Công văn số 1253/UBND-TH ngày 21/8/2025 về gửi Báo cáo phục vụ Đoàn công tác của Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội khảo sát, làm việc tại TP. Hồ Chí Minh.
5. Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2025). Quyết định số 2152/QĐ-UBND ngày 29/6/2025 về việc giao biên chế công chức tại Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã.
6. Những thay đổi của nhà nước trong kỷ nguyên mới. https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/08/11/nhung-thay-doi-cua-nha-nuoc-trong-ky-nguyen-moi.