Công tác phụ nữ tại tỉnh Hưng Yên – Thực trạng và giải pháp

ThS. Trần Thị Huyền
Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên

(Quanlynhanuoc.vn) – Công tác phụ nữ tại tỉnh Hưng Yên sau 5 năm triển khai Chỉ thị số 21-CT/TW của Ban Bí thư đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đó là, việc nâng cao nhận thức, hoàn thiện thể chế, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, xây dựng gia đình văn hóa và tăng cường vai trò cán bộ nữ… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng còn có những tồn tại, hạn chế nhất định, cần có các giải pháp mang tính chiến lược và khả thi nhằm tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ, đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ nữ có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng đòi hỏi của kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của hội nhập quốc tế sâu rộng, chuyển đổi số và phát triển dựa trên tri thức, góp phần vào sự phát triển bền vững của tỉnh Hưng Yên.

Từ khóa: Công tác phụ nữ, bình đẳng giới, cán bộ nữ, phát triển kinh tế, Hưng Yên.

1. Đặt vấn đề

Công tác phụ nữ và sự nghiệp bình đẳng giới là những nội dung mang tầm chiến lược, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước. Nhận thức sâu sắc điều đó, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt, thể hiện qua hệ thống các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật ngày càng hoàn thiện. Tại tỉnh Hưng Yên, một địa phương giàu truyền thống cách mạng, nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, công tác phụ nữ luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền xác định là nhiệm vụ chính trị trọng yếu. Đặc biệt, việc triển khai Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XII) về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới” và Chỉ thị số 29-CT/TU ngày 25/5/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hưng Yên đã tạo ra những chuyển biến tích cực, sâu sắc trong nhận thức và hành động của toàn hệ thống chính trị cũng như các tầng lớp Nhân dân trong giai đoạn hiện nay.

2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác phụ nữ

Quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh là luôn đề cao vai trò, vị trí của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng và công cuộc xây dựng đất nước. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định và cụ thể hóa trong các văn kiện của Đảng qua các thời kỳ.  

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về công tác phụ nữ (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 11-NQ/TW) được coi là văn bản có ý nghĩa nền tảng, chiến lược. Nghị quyết đã đề ra những quan điểm, mục tiêu và giải pháp toàn diện, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ, coi đây là yêu cầu khách quan và nội dung quan trọng trong chiến lược cán bộ của Đảng. Nghị quyết đặt ra các mục tiêu cụ thể về tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy, cơ quan dân cử; yêu cầu công tác tạo nguồn cán bộ nữ phải được đặt trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia; ưu tiên tuyển dụng, bồi dưỡng, phát triển tài năng nữ; chú trọng bố trí công tác để đảng viên nữ phấn đấu, trưởng thành; đồng thời, phải có chính sách đặc thù đối với cán bộ nữ công tác ở vùng khó khăn, là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ đi học có con nhỏ.

Tiếp nối tinh thần đó, Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư (khóa XII) về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới đã kế thừa, bổ sung và phát triển các quan điểm, nhiệm vụ phù hợp với bối cảnh mới. Chỉ thị tiếp tục quán triệt sâu sắc các mục tiêu, giải pháp của Nghị quyết số 11-NQ/TW, đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, hoàn thiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, xây dựng người phụ nữ Việt Nam phát triển toàn diện, xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh. Đặc biệt, Chỉ thị yêu cầu người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt chỉ tiêu Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác cán bộ nữ, khẳng định vai trò then chốt của công tác cán bộ nữ trong tổng thể công tác phụ nữ.  

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ; xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Đại hội nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, trong đó có việc quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ nữ.  

Bên cạnh đó, Đảng cũng ban hành các văn bản chỉ đạo cụ thể khác liên quan, như: Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16/5/1994 về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 28/7/2020 của Ban Bí thư về lãnh đạo Đại hội đại biểu phụ nữ các cấp và Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2022 – 2027, thể hiện sự lãnh đạo toàn diện, xuyên suốt của Đảng đối với công tác phụ nữ và công tác cán bộ nữ, bao gồm cả việc xây dựng đội ngũ lãnh đạo cho tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

Nhìn chung, quan điểm của Đảng là nhất quán, công tác phụ nữ và cán bộ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cần có chiến lược, quy hoạch, chính sách cụ thể, đồng bộ để phát huy vai trò, tiềm năng của phụ nữ; khắc phục định kiến giới; phấn đấu đạt các chỉ tiêu cụ thể về tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý; đồng thời bản thân phụ nữ cũng cần nỗ lực vươn lên.

3. Thực trạng công tác phụ nữ tỉnh Hưng Yên giai đoạn hiện nay

Qua 5 năm triển khai Chỉ thị 21-CT/TW và các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy, cùng với những nỗ lực trong thời gian gần đây, công tác phụ nữ tỉnh Hưng Yên đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trên nhiều phương diện, song cũng bộc lộ những hạn chế cần khắc phục.

3.1. Về kết quả đạt được

Thứ nhất, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và thể chế hóa. Sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, đứng đầu là Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đã tạo cơ sở chính trị vững chắc cho việc triển khai công tác phụ nữ. Việc ban hành kịp thời Chỉ thị 29-CT/TU, các kế hoạch, chương trình hành động và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, sơ kết đã bảo đảm Chỉ thị số 21-CT/TW đi vào cuộc sống. Nhận thức của các cấp, các ngành và người dân về bình đẳng giới và vai trò của phụ nữ được nâng lên rõ rệt.

Thứ hai, hoàn thiện và thực thi pháp luật, chính sách. Tỉnh đã tích cực triển khai Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình… Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ các cấp hoạt động hiệu quả. Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp phát huy vai trò trong việc tham gia xây dựng, giám sát và phản biện xã hội đối với các chính sách liên quan đến phụ nữ và trẻ em, tham gia góp ý vào 995 dự thảo văn bản luật và dưới luật trong 5 năm qua. Các mô hình, như câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật”, địa chỉ tin cậy tại cộng đồng được duy trì, phát huy hiệu quả.

Thứ ba, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững. Nhiều chính sách đặc thù hỗ trợ phụ nữ nghèo, khuyết tật, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn được triển khai. Các đề án hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp (Đề án 939) đã tạo động lực mạnh mẽ, giúp thành lập 17 hợp tác xã và 30 tổ hợp tác do phụ nữ quản lý. Nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách Xã hội và các tổ chức tín dụng khác với tổng dư nợ 3.428,4 tỷ đồng (tính đến năm 2023) đã hỗ trợ hội viên, phụ nữ phát triển sản xuất, kinh doanh1. Công tác đào tạo nghề cho 8.327 lao động nữ được chú trọng, góp phần quan trọng vào thành tích giảm tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn 1,93%. Các hoạt động hỗ trợ sinh kế, kết nối tiêu thụ sản phẩm tiếp tục được đẩy mạnh trong giai đoạn gần đây2.

Thứ tư, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần, chăm sóc sức khỏe. Các cấp Hội đã đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời đại mới “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”, gắn với cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” (không đói nghèo, không vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội, không bạo lực gia đình, không vi phạm chính sách dân số, không có trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học; sạch nhà, sạch ngõ, sạch môi trường) và học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh được phụ nữ tích cực hưởng ứng, nhiều mô hình bảo vệ môi trường, phân loại rác thải tại nguồn do phụ nữ đảm nhiệm tiếp tục được nhân rộng hiệu quả trong những tháng đầu năm 2024. Các hoạt động chăm sóc sức khỏe sinh sản, phòng chống dịch bệnh, tư vấn dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em được triển khai thường xuyên. Công tác phòng, chống bạo lực gia đình, xâm hại phụ nữ và trẻ em được chú trọng thông qua các mô hình câu lạc bộ, tuyên truyền pháp luật và phối hợp với các cơ quan chức năng.

Thứ năm, xây dựng, củng cố tổ chức Hội vững mạnh. Tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp tiếp tục được củng cố, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng thiết thực, hiệu quả, hướng về cơ sở. Công tác phát triển hội viên, xây dựng lực lượng nòng cốt được quan tâm, với 51.838 hội viên nòng cốt (tính đến 2023)3. Các cấp Hội tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong chỉ đạo, điều hành và tuyên truyền. Vai trò của Hội trong hệ thống chính trị ngày càng được khẳng định, thể hiện qua việc tham gia giám sát, phản biện xã hội theo Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị.

Thứ sáu, công tác cán bộ nữ có nhiều chuyển biến tích cực. Đây là một trong những điểm sáng nổi bật. Cấp ủy các cấp đã quan tâm hơn đến công tác phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ nữ. Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 đều đạt và vượt so với nhiệm kỳ trước (nhiệm kỳ 2015-2020: cấp tỉnh đạt 16,98%, cấp huyện đạt 16,08%, cấp xã đạt 18,49%; nhiệm kỳ 2020-2025: cấp tỉnh 15,3%, cấp huyện 20,4%, cấp xã 22,8%)4. Tỷ lệ nữ đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 cũng tăng đáng kể (cấp tỉnh 20,75%, cấp huyện 30,96%, cấp xã 29,44%). Số lượng cán bộ nữ giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể ngày càng tăng. Công tác quy hoạch cán bộ nữ được thực hiện bài bản hơn, đảm bảo cơ cấu về độ tuổi, trình độ. Trong 5 năm (2019 – 2024), gần 1.000 lượt cán bộ Hội các cấp được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, lý luận chính trị5.

Thứ bảy, đổi mới nội dung tổ chức thực hiện trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp: Trong thời gian gần đây, cùng với việc tỉnh Hưng Yên triển khai thực hiện chủ trương hợp nhất một số đơn vị hành chính cấp xã, công tác phụ nữ cũng có nhiều chuyển biến tích cực, phù hợp với yêu cầu tổ chức bộ máy và tình hình thực tế tại cơ sở. Sau hợp nhất, các tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp xã đã kịp thời củng cố, kiện toàn tổ chức, sắp xếp nhân sự đảm bảo tinh gọn, hoạt động hiệu quả, không để gián đoạn phong trào phụ nữ và công tác Hội. Nhiều địa phương đã chủ động đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, chú trọng nắm bắt tư tưởng, tâm tư của hội viên, nhất là ở những địa bàn mới hợp nhất, qua đó góp phần tăng cường khối đoàn kết, đồng thuận, giữ vững ổn định chính trị – xã hội ở cơ sở. Hiện nay toàn tỉnh đang tích cực tổ chức Đại hội phụ nữ các cấp nhiệm kỳ 2026 – 2031. Đây là cơ hội để tiếp tục phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ có năng lực, tâm huyết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đảm bảo đúng định hướng của Trung ương Hội và Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Đại hội các cấp là dịp quan trọng để đánh giá toàn diện kết quả công tác phụ nữ nhiệm kỳ qua

3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những thành tựu, công tác phụ nữ tỉnh Hưng Yên giai đoạn hiện nay vẫn còn đối mặt với những khó khăn, thách thức và bộc lộ một số hạn chế, đó là:

(1) Chuyển biến về nhận thức chưa đồng đều và bền vững. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực tuyên truyền, song nhận thức về bình đẳng giới và vai trò của công tác phụ nữ ở một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên và người dân còn chưa đầy đủ, sâu sắc. Đâu đó vẫn còn tư tưởng định kiến giới, coi nhẹ công tác Hội và cán bộ nữ. Việc triển khai quán triệt Chỉ thị ở một số nơi còn hình thức.

(2) Thực thi chính sách, pháp luật còn bất cập. Việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện một số chính sách liên quan đến phụ nữ ở cơ sở còn chậm, hiệu quả chưa cao. Công tác giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ tuy có cố gắng nhưng đôi khi còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng bạo lực gia đình, xâm hại phụ nữ, trẻ em vẫn diễn biến phức tạp. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn còn tồn tại, thể hiện qua tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh còn cao.

(3) Tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý chưa tương xứng. Mặc dù có tiến bộ, nhưng tỷ lệ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý cấp cao, đặc biệt là người đứng đầu, vẫn còn thấp so với tiềm năng và mong muốn. Việc quy hoạch cán bộ nữ đôi khi còn mang tính hình thức, khép kín, chưa thực sự “động” và “mở”, thiếu nguồn kế cận dài hạn. Vẫn còn tâm lý e dè, thiếu mạnh dạn trong việc đề bạt, bổ nhiệm cán bộ nữ, cán bộ trẻ. Hiện tượng “sống lâu lên lão làng” còn ảnh hưởng đến cơ hội của cán bộ trẻ, cán bộ nữ.

(4) Chất lượng nguồn nhân lực nữ còn hạn chế. Trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp của một bộ phận lao động nữ còn thấp, đặc biệt ở nông thôn và trong các doanh nghiệp, khu công nghiệp, chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường lao động trong tình hình mới. Một số cán bộ nữ, kể cả cán bộ Hội, năng lực thực tiễn, kỹ năng công tác còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.

(5) Hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ còn khó khăn. Nguồn lực dành cho hoạt động Hội còn hạn chế. Phương thức hoạt động ở một số nơi chậm đổi mới, còn mang tính hành chính. Việc thu hút, tập hợp một số đối tượng phụ nữ đặc thù (nữ công nhân, nữ trí thức…) còn gặp khó khăn. Sự phối hợp giữa các cấp Hội và các ban, ngành đôi khi chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả.

Nguyên nhân của những hạn chế chủ yếu là do nhận thức chưa đầy đủ của một số cấp ủy, người đứng đầu; hệ thống chính sách dù đã được quan tâm nhưng việc triển khai thực hiện ở cơ sở còn bất cập; nguồn lực đầu tư cho công tác phụ nữ còn hạn chế; ảnh hưởng dai dẳng của định kiến giới và tư tưởng phong kiến; năng lực của một bộ phận cán bộ làm công tác Hội còn hạn chế; và bản thân một số phụ nữ còn tâm lý tự ti, an phận.

4. Một số giải pháp tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ tỉnh Hưng Yên

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Đây là giải pháp có tính nền tảng, cần được thực hiện thường xuyên, liên tục. Cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác phụ nữ và bình đẳng giới bằng nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với từng đối tượng. Làm cho các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhận thức sâu sắc, công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và của mỗi gia đình. Đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đơn vị trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác phụ nữ. Gắn kết quả thực hiện công tác phụ nữ với đánh giá, xếp loại thi đua của các địa phương, đơn vị.

Hai là, hoàn thiện và thực thi hiệu quả hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới.

Tiếp tục rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách của tỉnh nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ trên mọi lĩnh vực, phù hợp với thực tiễn phát triển của giai đoạn hiện nay. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật, chính sách, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến phụ nữ và trẻ em. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ các cấp. Phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò giám sát và phản biện xã hội của Hội LHPN và các tổ chức chính trị – xã hội khác. Xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước với Hội Liên hiệp Phụ nữ trong việc tham gia quản lý nhà nước.

Ba là, phát huy tiềm năng, sức sáng tạo, hỗ trợ phụ nữ phát triển toàn diện.

Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, đề án hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, khởi nghiệp, giảm nghèo bền vững. Mở rộng khả năng tiếp cận tín dụng, đất đai, khoa học công nghệ cho phụ nữ. Đẩy mạnh đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, giới thiệu việc làm, đặc biệt cho phụ nữ nông thôn, phụ nữ yếu thế, đáp ứng yêu cầu thị trường lao động. Khuyến khích, hỗ trợ các mô hình kinh tế tập thể do phụ nữ làm chủ.

Tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, kỹ năng mềm. Khuyến khích phụ nữ tham gia nghiên cứu khoa học, tiếp cận công nghệ mới.

Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Tăng cường truyền thông về dinh dưỡng, phòng chống dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm. Nghiên cứu đưa chi phí tầm soát một số bệnh ung thư thường gặp ở phụ nữ vào danh mục chi trả của Bảo hiểm y tế.

Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về giá trị gia đình, kỹ năng sống, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình, các tệ nạn xã hội. Phát triển hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo, dịch vụ gia đình chất lượng.

Bốn là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới.

Đây là giải pháp then chốt, có tính đột phá, đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Hưng Yên cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức. Bối cảnh này đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng. Do đó, cần thực hiện đồng bộ các khâu:

(1) Đổi mới tư duy và phương pháp quy hoạch, đảm bảo thực chất, “động” và “mở”, có tầm nhìn dài hạn. Chú trọng phát hiện nguồn cán bộ nữ trẻ, có trình độ chuyên môn vững vàng, có năng lực tư duy chiến lược, khả năng thích ứng nhanh với thay đổi, có phẩm chất đạo đức tốt, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đảm bảo tỷ lệ nữ trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp đạt chỉ tiêu đề ra, khắc phục tình trạng quy hoạch khép kín trong ngành, đơn vị.

(2) Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ theo quy hoạch, gắn với tiêu chuẩn chức danh và yêu cầu của kỷ nguyên mới. Nội dung đào tạo cần toàn diện, cập nhật, bao gồm lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý hiện đại, năng lực hoạch định và thực thi chính sách, kỹ năng xử lý khủng hoảng, đặc biệt là ngoại ngữ, tin học, năng lực ứng dụng công nghệ số và kỹ năng hội nhập quốc tế. Khuyến khích, tạo điều kiện cho cán bộ nữ tham gia các chương trình đào tạo chất lượng cao trong và ngoài nước, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến.

(3) Mạnh dạn, quyết liệt trong việc đề bạt, bổ nhiệm cán bộ nữ đã được quy hoạch, đủ tiêu chuẩn vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả các vị trí chủ chốt, khắc phục tâm lý e dè, thiếu tin tưởng. Tạo môi trường làm việc bình đẳng, thuận lợi để cán bộ nữ phát huy tối đa năng lực, sở trường. Thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ nữ qua nhiều vị trí, đặc biệt là luân chuyển về cơ sở, để rèn luyện bản lĩnh, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn. Đánh giá cán bộ nữ một cách khách quan, công tâm, dựa trên hiệu quả công việc, chống các biểu hiện nể nang, cảm tính.

(4) Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách đặc thù, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cán bộ nữ phát triển (như quy định về tuổi bổ nhiệm, quy hoạch, chế độ làm việc, hỗ trợ gia đình, nhà ở…). Xây dựng và thực thi hiệu quả chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài nữ, đặc biệt là những người có trình độ cao, có năng lực vượt trội, đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới.

Việc xây dựng thành công đội ngũ cán bộ nữ bản lĩnh, trí tuệ, năng động, sáng tạo, có tầm nhìn chiến lược, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế và dẫn dắt sự thay đổi chính là yếu tố quyết định để Hưng Yên tận dụng được cơ hội, vượt qua thách thức trong kỷ nguyên mới, đồng thời thúc đẩy sự nghiệp bình đẳng giới một cách thực chất và bền vững.

Năm là, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp.

Hội Liên hiệp Phụ nữ cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và giải quyết những vấn đề thiết thực của phụ nữ. Đa dạng hóa các hình thức tập hợp, thu hút hội viên. Nâng cao năng lực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền; thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Hội chuyên nghiệp, tâm huyết, trách nhiệm. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động Hội. Tăng cường phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể trong triển khai nhiệm vụ, như việc phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để hỗ trợ phụ nữ tiếp cận vốn hiệu quả hơn.

5. Kết luận

Công tác phụ nữ là một sự nghiệp vẻ vang nhưng cũng đầy khó khăn, thử thách. Những thành tựu đạt được trong công tác phụ nữ tại Hưng Yên thời gian qua là rất đáng trân trọng, khẳng định sự quan tâm sâu sắc của Đảng bộ, chính quyền và sự nỗ lực vươn lên của các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh. Tuy nhiên, trước yêu cầu của giai đoạn hiện nay và kỷ nguyên mới với những thời cơ và thách thức đan xen, công tác phụ nữ cần tiếp tục được đẩy mạnh một cách toàn diện, đồng bộ và quyết liệt hơn nữa.

Việc thực hiện hiệu quả các nhóm giải pháp đã đề ra, đặc biệt là tạo bước đột phá trong công tác cán bộ nữ, sẽ là chìa khóa để khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tiềm năng, sức sáng tạo của phụ nữ, xây dựng phụ nữ Hưng Yên thời đại mới “Tự tin – Tự trọng – Trung hậu – Đảm đang”, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng quê hương Hưng Yên ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, cùng cả nước vững bước trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển. Đây không chỉ là trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể mà còn là trách nhiệm và vinh dự của mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.

Chú thích:
1, 2, 3. Tỉnh uỷ Hưng Yên (2023). Báo cáo số 324-BC/TU ngày 11/9/2023 về sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới.
4. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh Hưng Yên lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2021-2026.
5. Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh. Báo cáo công tác đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh các năm 2020, 2021, 2022, 2023, 2024.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2007). Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2018). Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/1/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật.
4. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hưng Yên (2011). Báo cáo số 27-BC/TU ngày 12/8/2011 về công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ, cán bộ trẻ tỉnh Hưng Yên, giai đoạn 2006 – 2011.
5. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2024). Báo cáo Kết quả hoạt động của các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ trong tỉnh.
6. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Hưng Yên lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2016 – 2021.
7. Hoàng Thu Trang (2014). “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền” . Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10/2014.