Một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện nay

TS. Đỗ Hồng Quảng
Trường Sĩ quan Lục quân 1

(Quanlynhanuoc.vn) – Trường Sĩ quan Lục quân 1 là nôi đào tạo sĩ quan Chỉ huy – Tham mưu Lục quân cấp phân đội của Quân đội, do đó môn tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là một học phần lý luận mà còn là thành tố quan trọng góp phần hình thành bản lĩnh chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong chỉ huy cho người sĩ quan tương lai. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục có những biến động phức tạp, khó lường; nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với chất lượng đào tạo sĩ quan – đặc biệt là phẩm chất chính trị, tư duy khoa học và năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn quân sự.

Từ khóa: Nâng cao chất lượng, giảng dạy, môn tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng viên, Trường Sĩ quan Lục quân 1.

1. Đặt vấn đề

Thực tiễn giảng dạy và học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện nay còn bộc lộ một số hạn chế nhất định đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, thiết thực và hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn học. Trên cơ sở nhận thức về vị trí, vai trò của môn học trong nhà trường quân đội, đặc biệt là với chức năng, nhiệm vụ đào tạo sĩ quan chỉ huy – tham mưu Lục quân cấp phân đội của Trường Sĩ quan Lục quân 1, bài viết tập trung làm rõ một số vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn học, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo của Nhà trường, Quân đội và của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

2. Thực trạng giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh ở Trường Sĩ quan Lục quân 1

Những năm qua, công tác giảng dạy các môn lý luận nói chung, môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường và sự nỗ lực, tâm huyết của đội ngũ giảng viên. Do đó, chất lượng giảng dạy và học tập môn học có nhiều chuyển biến tích cực và không ngừng được nâng cao.

Đội ngũ giảng viên giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh có bản lĩnh chính trị vững vàng, có nhận thức đúng đắn về chức trách, nhiệm vụ, ý thức quyết tâm cao, tâm huyết với nghề, nhiệt tình hăng say trong công việc; hiện nay 100% có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ và nhiều đồng chí đang đi học thạc sỹ và nghiên cứu sinh ngành Hồ Chí Minh học. Đội ngũ giảng viên không chỉ am hiểu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn có kinh nghiệm thực tiễn trong công tác quân sự, giáo dục chính trị, bảo đảm tính chiến đấu và tính khoa học trong từng bài giảng.

Chương trình, nội dung giảng dạy được biên soạn, chuẩn hóa theo giáo trình, tài liệu chính thống của Tổng cục Chính trị và các văn bản hướng dẫn của Bộ Quốc phòng. Nội dung bài giảng phù hợp với đặc thù đào tạo sĩ quan chỉ huy – tham mưu Lục quân và bám sát mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường, nhiệm vụ chính trị của Quân đội đặc biệt là yêu cầu xây dựng phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị cho học viên.

Công tác tổ chức dạy và học được triển khai chặt chẽ, nghiêm túc từ khâu chuẩn bị giáo án, phê duyệt đến tổ chức giờ học trên lớp. Các buổi học được quản lý, duy trì, thực hiện đúng điều lệnh, nền nếp, kỷ luật. Quá trình giảng dạy luôn chú trọng tính định hướng của tư tưởng, gắn với thực tiễn vận động phát triển của đất nước, quân đội, Nhà trường và bám sát với nhiệm vụ ở đơn vị cơ sở… làm cho chất lượng giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được giữ vững và không ngừng nâng cao.

100% các bài giảng đã được giảng viên sử dụng trình chiếu PowerPoint, có sự kết hợp với video tư liệu lịch sử, các mô hình trực quan để làm sinh động bài giảng… giúp học viên dễ tiếp thu kiến thức, ghi nhớ sâu sắc và hiểu rõ hơn giá trị thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Có nhiều bài giảng chất lượng với các luận cứ, luận chứng thực tiễn sâu sắc, sinh động thu hút được sự quan tâm, chú ý, tích cực học tập của học viên, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của Nhà trường, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ đảng viên; thực hiện thắng lợi phương châm: “Chất lượng đào tạo ở nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”1.

Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn có những hạn chế, như: phương pháp giảng dạy chưa thực sự đổi mới, còn nặng lý thuyết. Trong nhiều buổi học, phương pháp giảng dạy chủ yếu vẫn theo lối truyền thống, giảng viên trình bày, học viên ghi chép. Cách tiếp cận này làm giảm sự hứng thú, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo và tư duy phản biện của học viên. Một số giảng viên chưa mạnh dạn áp dụng các phương pháp dạy học tích cực như thảo luận nhóm, nghiên cứu tình huống, tổ chức trò chơi tư duy, trình bày ý tưởng, dẫn đến hiệu quả chưa cao.

Học viên chưa nhận thức đầy đủ vai trò, ý nghĩa của môn học. Một bộ phận học viên còn tư tưởng xem nhẹ các môn học lý luận, chưa thấy được mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu, công tác sau này. Học viên chủ yếu học để đối phó với kiểm tra, thi cử, thiếu tính tự giác và tinh thần nghiên cứu khoa học.

Thiếu sự gắn kết giữa nội dung bài giảng với thực tiễn quân sự hiện đại. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và những thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn quân sự cần được cụ thể hóa và đổi mới. Nhiều bài giảng vẫn nặng về trình bày lý luận trừu tượng, chưa gắn với tình huống thực tế, yêu cầu nhiệm vụ của người sĩ quan lục quân trong thời kỳ mới.

Hệ thống học liệu, phương tiện giảng dạy còn hạn chế, mặc dù nhà trường đã có nhiều cố gắng trong đầu tư, nhưng các thiết bị phục vụ giảng dạy như máy chiếu, máy tính, tài liệu hình ảnh, video tư liệu vẫn chưa đầy đủ, không đồng bộ. Nguồn học liệu bổ trợ, tài liệu nghiên cứu chuyên sâu cho học viên tiếp cận còn hạn chế, ảnh hưởng đến quá trình tự học, tự nghiên cứu của học viên.

Nguyên nhân của hạn chế là do, một số giảng viên chưa thực sự đổi mới tư duy trong phương pháp dạy học, vẫn còn tâm lý an toàn, ngại đổi mới. Công tác quản lý, chỉ đạo giảng dạy đôi khi còn chưa thực sự cụ thể, chưa đi sâu kiểm tra chất lượng thực chất. Học viên chịu áp lực từ nhiều môn học quân sự, huấn luyện thể lực, thực hành chiến thuật… nên thời gian, tinh thần đầu tư cho môn lý luận nói chung, môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng còn hạn chế. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, thông tin mạng xã hội có thể gây nhiễu, ảnh hưởng đến nhận thức chính trị của học viên nếu thiếu sự định hướng kịp thời.

3. Một số biện pháp cơ bản nâng cao chất lượng giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện nay

Thứ nhất, đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của người học.

Phương pháp giảng dạy đóng vai trò quyết định đến hiệu quả tiếp thu, nhận thức và vận dụng kiến thức của người học. Đặc biệt, đối với môn tư tưởng Hồ Chí Minh – một môn học mang tính lý luận cao, nếu không có sự đổi mới phương pháp sẽ dễ rơi vào tình trạng khô khan, nặng tính áp đặt, làm giảm tính hứng thú và khả năng tiếp cận chủ động của học viên.

Việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của người học không phải là thay đổi hình thức đơn thuần mà là thay đổi tư duy sư phạm, đặt người học vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học, giúp học viên tiếp cận tri thức lý luận một cách sinh động, gắn với thực tiễn quân sự, từ đó hình thành niềm tin lý tưởng, bản lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng vững vàng, đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ sĩ quan chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong thời kỳ mới.

Theo đó, cần thực hiện tốt các nội dung đổi mới sau: chuyển từ phương pháp truyền thụ một chiều sang phương pháp tổ chức hoạt động học tập tích cực, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực phù hợp với đặc thù đào tạo sĩ quan; cần tăng cường tổ chức các hình thức dạy học tương tác, như: thảo luận nhóm, hỏi đáp định hướng, trình bày ý tưởng, phản biện mở, giúp học viên rèn luyện kỹ năng tư duy độc lập, khả năng diễn đạt và lập luận logic.

Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực như: dạy học theo tình huống (case study); dạy học dựa trên vấn đề (PBL – Problem – Based Learning. Sử dụng sơ đồ tư duy, mô hình hóa nội dung; tăng cường vai trò tự học, tự nghiên cứu của học viên. Cần thực hiện chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học. Khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực2. Kết hợp linh hoạt giữa phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại, tổ chức các hoạt động ngoại khóa gắn với nội dung môn học, nâng cao vai trò của giảng viên trong việc hướng dẫn phương pháp học tập hiệu quả.

Thứ hai, gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và công tác rèn luyện của học viên.

Gắn nội dung bài giảng với nhiệm vụ, vị trí công tác của người cán bộ, học viên, với thực tiễn nhiệm vụ của Nhà trường, quân đội. Trong từng bài giảng, giảng viên cần xác định rõ các nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh có thể gắn với công việc cụ thể của cán bộ, học viên, Nhà trường, quân đội. Lồng ghép bài học thực tiễn từ rèn luyện và huấn luyện trong nhà trường, sử dụng các tấm gương người thật – việc thật để minh họa tư tưởng Hồ Chí Minh.

Giáo dục tư tưởng không dừng lại ở khẩu hiệu. Việc đưa vào bài giảng những tấm gương điển hình trong thực tiễn Nhà trường, quân đội sẽ làm cho nội dung lý luận trở nên sống động, gần gũi. Đây chính là cách “biến bài giảng thành đời sống”, giúp học viên không chỉ nghe – hiểu mà còn thấm sâu tư tưởng đạo đức cách mạng qua chính hành động của đồng chí, đồng đội mình. Tổ chức các hoạt động học tập, rèn luyện gắn kết lý luận với hành động.

Thường xuyên tổ chức các diễn đàn: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, “Tư tưởng Bác trong hành động hôm nay”, thi “Kể chuyện về Bác Hồ”, “Sổ tay rèn luyện theo gương Bác”… Những hoạt động này nên được lồng ghép vào chương trình môn học, coi như phần thực hành giúp người học vừa ôn kiến thức, vừa liên hệ thực tế.Trong các bài thi, kiểm tra, có thể yêu cầu học viên liên hệ nội dung đã học với trải nghiệm cá nhân trong huấn luyện, công tác, kỷ luật, sinh hoạt… từ đó tạo điều kiện để họ tự đánh giá sự vận dụng của bản thân đối với tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ ba, bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục”3. Điều 15, Luật Giáo dục xác định: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục”4. Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) chỉ rõ: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh”5. Trong thực tiễn, đội ngũ giảng viên đóng vai trò then chốt, quyết định chất lượng đào tạo nói chung và hiệu quả giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng. Trong điều kiện đào tạo sĩ quan tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 – nơi học viên là đối tượng được huấn luyện toàn diện cả về chính trị, quân sự, phẩm chất và năng lực chỉ huy… thì việc bồi dưỡng, phát triển năng lực đội ngũ giảng viên đặc biệt là giảng viên môn tư tưởng Hồ Chí Minh, là nhiệm vụ chiến lược và lâu dài.

Để bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ giáo dục – đào tạo trong Quân đội cần thực hiện tốt các nội dung: bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên. Giảng viên giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh cần có kiến thức vững chắc về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, đồng thời phải hiểu sâu sắc về nghiệp vụ quân sự, đặc điểm đào tạo sĩ quan chỉ huy để giảng dạy sát với thực tế.

Nhà trường cần chủ động phối hợp với các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về lý luận chính trị – tư tưởng, cập nhật kiến thức mới cho giảng viên. Cử giảng viên tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm quân sự, các hội thảo chuyên đề trong và ngoài Quân đội, giúp họ tích lũy phương pháp, kỹ năng giảng dạy hiện đại.

Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn cho giảng viên. Nhà trường cần tạo điều kiện để giảng viên tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, cấp ngành, cấp Bộ Quốc phòng; viết bài cho các tạp chí khoa học uy tín, như: Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Tạp chí Lý luận chính trị quân sự,… Khuyến khích giảng viên tổng kết kinh nghiệm giảng dạy, rút ra mô hình hiệu quả, từ đó viết sáng kiến cải tiến hoặc chuyên đề tham luận tại các hội nghị khoa học của nhà trường và Quân đội.

Tăng cường rèn luyện phương pháp giảng dạy tích cực và kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin. Giảng viên cần được bồi dưỡng thường xuyên về các phương pháp dạy học tích cực: dạy học theo tình huống, dạy học theo dự án, học tập nêu vấn đề, kỹ thuật động não, sơ đồ tư duy, phương pháp tranh biện… Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng bài giảng điện tử, trình chiếu multimedia, tương tác qua phần mềm lớp học số, góp phần làm phong phú nội dung truyền đạt, hỗ trợ học viên học tập chủ động hơn.

Giảng viên cần rèn luyện kỹ năng sử dụng các phần mềm trình chiếu, thiết kế quiz (trắc nghiệm nhanh), hệ thống câu hỏi mở trên nền tảng số nội bộ, phục vụ đánh giá quá trình học tập của học viên. Xây dựng môi trường học thuật tích cực, đoàn kết và cầu thị trong khoa, bộ môn. Cần phát huy tinh thần học hỏi, chia sẻ và cùng nhau tiến bộ trong nội bộ đội ngũ giảng viên, tránh tâm lý “thầy độc lập giảng, không trao đổi”. Tổ chức định kỳ các buổi báo giảng, dự giờ, rút kinh nghiệm, góp ý thẳng thắn, xây dựng giữa các giảng viên với nhau; coi đây là diễn đàn học thuật nghiêm túc, công khai và cầu thị. Tạo điều kiện để giảng viên trẻ học hỏi từ người đi trước; ngược lại, khuyến khích giảng viên lâu năm tiếp thu phương pháp giảng dạy mới từ thế hệ trẻ.

Coi trọng phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách mô phạm của giảng viên. Giảng viên giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh là người nói, giáo dục, truyền bá về tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho người khác nghe, hiểu, vận dụng và thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh, do đó phải sống, rèn luyện và làm việc đúng với tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác. Do đó, cần coi trọng việc bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách mô phạm, tác phong chính quy, lời nói đi đôi với việc làm cho giảng viên.

Khuyến khích giảng viên học tập và làm theo Bác từ những việc nhỏ nhất: đúng giờ, trang phục gọn gàng, giảng dạy mạch lạc, xử lý tình huống sư phạm linh hoạt, ứng xử văn hóa với học viên… Bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên là giải pháp có tính chất căn bản, chiến lược và lâu dài để nâng cao chất lượng giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh trong các nhà trường quân đội. Đội ngũ giảng viên không chỉ là người truyền thụ tri thức mà còn là hạt nhân tư tưởng, người dẫn dắt lý tưởng và nhân cách cho học viên sĩ quan.

Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá và quản lý chất lượng giảng dạy – học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh.

Công tác kiểm tra, đánh giá và quản lý chất lượng giảng dạy – học tập giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình đào tạo, góp phần đảm bảo tính khách quan, khoa học và hiệu quả của toàn bộ hoạt động giáo dục – đào tạo. Đối với môn tư tưởng Hồ Chí Minh tại Trường Sĩ quan Lục quân 1, đây không chỉ là môn học lý luận chính trị cơ bản mà còn là nền tảng hình thành bản lĩnh chính trị, nhân cách đạo đức và lý tưởng cách mạng cho người học. Do đó, việc tăng cường kiểm tra, đánh giá và quản lý chất lượng dạy – học không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học, mà còn góp phần xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ có năng lực, phẩm chất, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.

Để thực hiện tốt vấn đề này cần thực hiện một số nội dung cơ bản sau: hoàn thiện hệ thống tiêu chí, nội dung và phương pháp đánh giá giảng dạy – học tập môn học. Cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh một cách khoa học, cụ thể, sát với đặc thù đào tạo sĩ quan, trong đó chú trọng các yếu tố: trình độ chuyên môn, phương pháp sư phạm, khả năng liên hệ thực tiễn, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, mức độ tương tác với người học và hiệu quả giáo dục tư tưởng. Đối với người học, ngoài đánh giá kiến thức thông qua thi viết, cần bổ sung các hình thức đánh giá như: trình bày miệng, viết tiểu luận, thuyết trình nhóm, xử lý tình huống, sản phẩm học tập sáng tạo… giúp phản ánh toàn diện quá trình tiếp thu, vận dụng và trưởng thành tư tưởng của học viên.

Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học. Không đánh giá nặng về ghi nhớ kiến thức thuần túy, mà hướng tới đánh giá khả năng tư duy độc lập, tư duy phản biện, kỹ năng trình bày, khả năng liên hệ và vận dụng thực tiễn. Thiết kế các bài tập mở, đề thi tình huống, yêu cầu học viên vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các tình huống thực tiễn trong huấn luyện, công tác đơn vị, xây dựng mối quan hệ chỉ huy – chiến sĩ, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng… Khuyến khích hình thức tự đánh giá, đánh giá đồng đẳng (giữa học viên với nhau) trong các giờ học nhóm, thuyết trình, tranh biện học thuật, nhằm phát triển tinh thần học tập chủ động và trách nhiệm cá nhân trong tập thể.

Tăng cường công tác kiểm tra chuyên môn, dự giờ, đánh giá giảng viên một cách thực chất. Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh, Khoa Lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cần duy trì đều đặn việc kiểm tra, dự giờ giảng viên cả định kỳ và đột xuất, tránh hình thức, bảo đảm thực chất, từ đó kịp thời phát hiện ưu điểm để nhân rộng và chỉ rõ hạn chế để điều chỉnh, bồi dưỡng. Tổ chức đánh giá kết quả học tập của học viên gắn với đánh giá chất lượng giảng dạy của giảng viên, đảm bảo phản ánh đúng mức độ ảnh hưởng của phương pháp, nội dung và cách truyền đạt của giảng viên tới hiệu quả học tập của lớp. Kết quả đánh giá cần được thông báo công khai, công bằng và làm căn cứ cho công tác thi đua, khen thưởng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên.

Tăng cường vai trò quản lý, giám sát và phối hợp của các cấp trong quản lý chất lượng. Cần xác định rõ vai trò của các cấp trong công tác kiểm tra, đánh giá, từ Ban Giám hiệu, phòng Đào tạo, khoa, bộ môn đến cán bộ tiểu đoàn, đại đội. Thiết lập quy chế phối hợp giám sát chất lượng học tập môn học giữa khoa, bộ môn và đơn vị quản lý học viên. Phối hợp và phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng (Tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy, Hội đồng quân nhân, Đoàn Thanh niên, Phụ nữ..) để nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập của giảng viên, học viên, đặc biệt trong theo dõi kết quả rèn luyện tư tưởng, đạo đức của học viên sau mỗi học phần. Thực hiện tốt việc tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết đánh giá chất lượng môn học định kỳ, có tham khảo ý kiến phản hồi từ học viên, cán bộ quản lý học viên để đưa ra điều chỉnh sát thực.

Khuyến khích học viên phản hồi, đánh giá ngược quá trình dạy học. Xây dựng kênh tiếp nhận phản hồi chính thức (ẩn danh và công khai) về chất lượng giảng dạy, mức độ tiếp thu, khó khăn trong học tập từ phía học viên. Tổ chức định kỳ các diễn đàn đối thoại giữa giảng viên với học viên, nhằm lắng nghe và điều chỉnh kịp thời các nội dung, phương pháp giảng dạy. Khuyến khích học viên chủ động đánh giá bản thân, đánh giá nhóm học tập theo từng chủ đề, giúp hình thành ý thức tự học, tự rèn, phát triển tư duy độc lập và tinh thần phản biện tích cực.

4. Kết luận

Nâng cao chất lượng giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 là yêu cầu cấp thiết, góp phần xây dựng đội ngũ sĩ quan có phẩm chất chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Việc triển khai các giải pháp một cách đồng bộ, hiệu quả sẽ không chỉ cải thiện chất lượng môn học mà còn góp phần nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện cho học viên – những người sẽ trở thành cán bộ chỉ huy, quản lý trong Quân đội nhân dân Việt Nam trong tương lai.

Chú thích:
1. Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (2020). Chỉ lệnh số 971/CT-TM ngày 04/12/2020 về công tác quân sự quốc phòng năm 2021.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TƯ ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện GD và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 345.
4. Quốc hội (2015). Luật Giáo dục năm 2015.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997). Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII). H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật.