Vai trò của quân đội trong xây dựng khu kinh tế – quốc phòng

TS. Phạm Thị Vượng
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Khu kinh tế – quốc phòng là tên gọi tắt của khu vực triển khai dự án phát triển kinh tế – xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa gắn với xây dựng quốc phòng – an ninh trên các địa bàn chiến lược do Bộ Quốc phòng làm chủ đầu tư, có các Đoàn Kinh tế – quốc phòng đứng chân làm nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội kết hợp với củng cố quốc phòng – an ninh. Từ năm 1998 đến nay, các khu kinh tế – quốc phòng dần trở thành điểm sáng về kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo nên thế trận quốc phòng – an ninh của khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, các địa bàn chiến lược.

Từ khóa: Quân đội, xây dựng kinh tế, khu kinh tế – quốc phòng, từ năm 1998 đến nay.

1. Đặt vấn đề

Xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng là sự phát triển kinh tế gắn liền với tăng cường quốc phòng, an ninh nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vững mạnh, đặc biệt là trên các địa bàn chiến lược, biên giới và hải đảo. Đây là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng và Nhà nước. Điều này liên tục được tái khẳng định tại các kỳ Đại hội. Năm 2001, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX nhấn mạnh “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại”1.

Đại hội Đảng lần thứ XIII (năm 2021) tiếp tục nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là tại địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, khu kinh tế trọng điểm”2. Nhằm phát huy vai trò của lực lượng quân đội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Bộ Quốc phòng được giao nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa gắn với xây dựng quốc phòng – an ninh trên các địa bàn chiến lược.

2. Chủ trương của Đảng và Bộ Quốc phòng về xây dựng khu kinh tế – quốc phòng

Việt Nam có 4.639 km đường biên giới trên đất liền3 với địa hình phức tạp, chủ yếu là núi cao hiểm trở. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân miền núi, biên giới tuy đã được cải thiện nhưng còn rất khó khăn, tỷ lệ đói nghèo (theo tiêu chuẩn mới) phổ biến là trên 25%, có nơi tới 90%4. Phát triển kinh tế – xã hội ở những địa bàn này có ý nghĩa rất lớn, không chỉ về kinh tế mà còn về chính trị, quốc phòng.

Ngày 31/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 135/QĐ-TTg về phê duyệt chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn. Theo đó, Chính phủ đã giao Bộ Quốc phòng xây dựng các vùng kinh tế mới, xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội ở những vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo. Đây là khởi đầu để Bộ Quốc phòng triển khai xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng trên địa bàn cả nước.

Thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ, Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) đã ra Nghị quyết số 150/ĐUQSTW ngày 10/8/1998 về việc quân đội phát huy vai trò nòng cốt tham gia xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên các địa bàn chiến lược với nội dung căn bản là xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng. Bộ Quốc phòng lựa chọn những địa bàn đặc biệt khó khăn, trống dân, thưa dân, địa bàn nhạy cảm về vấn đề tôn giáo, dân tộc dọc biên giới để xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội kết hợp với củng cố quốc phòng an ninh. Bộ đã phối hợp với các cơ quan trung ương và địa phương xây dựng các đề án quy hoạch và phát triển các khu kinh tế – quốc phòng.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 277/QĐ-TTg ngày 31/3/2000 về việc phê duyệt Đề án tổng thể quân đội tham gia xây dựng phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng sâu, vùng xa gắn với xây dựng khu kinh tế – quốc phòng an ninh trên địa bàn chiến lược, biên giới, ven biển. Theo Đề án, Bộ Quốc phòng triển khai xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng, trong đó Đoàn Kinh tế – quốc phòng đóng vai trò nòng cốt, trở thành chỗ dựa cho chính quyền địa phương nơi đóng quân.

Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các quyết định, như: Quyết định số 43/2002/QĐ-TTg ngày 21/3/2002 phê duyệt bổ sung Đề án quy hoạch tổng thể các khu kinh tế – quốc phòng trong tình hình mới; Quyết định số 1391/QĐ-TTg ngày 09/8/2010 về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể xây dựng phát triển các khu kinh tế – quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo; Quyết định số 49/QĐ-TTg ngày 24/6/2020 và ban hành một số văn bản chỉ đạo công tác xây dựng khu kinh tế – quốc phòng.

Chính phủ ban hành Nghị định số 44/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 về xây dựng khu kinh tế – quốc phòng; Nghị định số 22/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 về khu kinh tế – quốc phòng; Nghị định số 220/2025/NĐ-CP ngày 07/8/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của một số nghị định trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự khi tổ chức chính quyền địa phương hai cấp.

Để thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ giao, Bộ Quốc phòng cũng ban hành một số văn bản chỉ đạo công tác xây dựng khu kinh tế – quốc phòng, như: Nghị quyết số 150-NQ/ĐUQSTW ngày 10/8/1998; Nghị quyết số 71-NQ/ĐUQSTW ngày 25/4/2002 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội trong thời kỳ mới – tiếp tục sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp quân đội; Chỉ thị số 47/CT-BQP ngày 16/9/2002; Chỉ thị số 24/2004/CT-BQP ngày 25/02/2004; Nghị quyết số 520-NQ/QUTW ngày 25/9/2012 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của Quân đội đến năm 2020. Ngày 06/9/2025, Bộ Quốc phòng ban hành Văn bản hợp nhất số 49/VBHN-BQP về khu kinh tế – quốc phòng.Từ những văn bản trên của Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc phòng về khu kinh tế – quốc phòng, các quan điểm, chủ trương, chính sách được thống nhất như sau:

Thứ nhất, mục tiêu của các khu kinh tế – quốc phòng là phát triển kinh tế – xã hội gắn với củng cố quốc phòng – an ninh trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển đảo của Tổ quốc, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

Thứ hai, quan điểm về xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng là lấy hiệu quả kinh tế – xã hội, giữ vừng ổn định chính trị, củng cố quốc phòng – an ninh làm mục tiêu. Xác định hoạt động kinh tế – quốc phòng trên biển của quân đội là một bộ phận không thể thiếu của Chiến lược biển quốc gia; xây dựng và phát triển một số loại hình kinh tế có hiệu quả, mang tính chất lưỡng dụng kinh tế – quốc phòng làm nòng cốt xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc.

Thứ ba, nhiệm vụ của các khu kinh tế – quốc phòng là xây dựng cơ sở hạ tầng kết hợp với tiếp nhận dân từ nơi khác đến và tổ chức lại dân cư, góp phần hình thành nên những cụm dân cư ở khu vực biên giới của Tổ quốc. Các khu kinh tế – quốc phòng khai thác tiềm năng đất đai để phát triển sản xuất, tổ chức và hướng dẫn nhân dân tại các khu kinh tế – quốc phòng sản xuất, phát triển kinh tế; đồng thời từng bước cải thiện, nâng cao đời sống của Nhân dân.

Thứ tư, giải pháp cho các khu kinh tế – quốc phòng là xây dựng và hoàn chỉnh đề án các khu kinh tế – quốc phòng, từng bước hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức cơ chế hoạt động để làm cơ sở cho các Đoàn Kinh tế – quốc phòng triển khai nhiệm vụ.

Có thể nói, xây dựng khu kinh tế – quốc phòng là thể hiện một tư duy mới của nhiệm vụ kinh tế kết hợp với quốc phòng trong giai đoạn cách mạng mới. Các khu kinh tế – quốc phòng không chỉ là nơi sản xuất – kinh doanh mà còn là nơi có vị trí chiến lược về quốc phòng; phát triển kinh tế – xã hội nhằm cải thiện đời sống của người dan trên địa bàn mà còn giúp tăng cường tiềm lực quốc phòng ở những vị trí chiến lược của đất nước.

3. Xây dựng khu kinh tế – quốc phòng

Theo quy hoạch tổng thể của Đề án xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng, các khu được xây dựng ở những địa bàn có mật độ dân cư thưa thớt, phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng chưa phát triển. Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, các khu này thường nằm ở địa bàn có vị trí chiến lược, “nhạy cảm” về quốc phòng, an ninh, là nơi các thế lực phản động dễ lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, chống phá Nhà nước. Lực lượng tổ chức xây dựng khu kinh tế – quốc phòng là các Đoàn Kinh tế – quốc phòng. Các Đoàn Kinh tế – quốc phòng thực hiện đồng thời nhiệm vụ, chức năng chiến đấu, có nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế; làm công tác dân vận, góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, củng cố thế trận quốc phòng – an ninh; làm trung tâm điều phối các hoạt động trong khu kinh tế biển, đảo; tổ chức các hoạt động kinh tế và chương trình đưa dân ra sinh sống, xây dựng đảo; giữ gìn và bảo vệ môi trường, sẵn sàng chiến đấu khi có tình huống.

Giai đoạn 1998 – 2006, Bộ Quốc phòng triển khai xây dựng 19 khu kinh tế – quốc phòng5  trên các địa bàn chiến lược từ biên giới phía Bắc đến Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Ngoài ra, Bộ Quốc phòng còn triển khai 3 dự án lấn biển: Bình Minh 3, Cồn Vành và cồn Xanh để tạo điều kiện dãn dân ở đồng bằng Bắc Bộ và tạo nên thế trận phòng thủ bờ biển. Giai đoạn tiếp theo, Bộ Quốc phòng đầu tư chuyển tiếp các khu kinh tế – quốc phòng, mở rộng quy mô các khu đã được xây dựng và triển khai xây dựng mới các khu kinh tế – quốc phòng.

Đến năm 2021, Bộ Quốc phòng đầu tư chuyển tiếp các khu kinh tế – quốc phòng, mở rộng quy mô các khu đã được xây dựng, triển khai xây dựng mới các khu, nâng tổng số lến 29 khu kinh tế – quốc phòng6. Trong đó, Kinh tế – quốc phòng Mường Chà, khu kinh tế – quốc phòng Bát Xát, khu Kinh tế – quốc phòng Phong Thổ và khu Kinh tế – quốc phòng Xí Mần đã được mở rộng về diện tích và quy mô hơn so với giai đoạn trước. Đến năm 2025, Bộ Quốc phòng tiến hành triển khai xây dựng 2 khu kinh tế – quốc phòng7,nâng tổng số lên 31 khu kinh tế – quốc phòng.

Việc triển khai xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng ở vùng biển, đảo có ý nghĩa rất lớn trong giai đoạn hiện nay, khi chủ quyền biển đảo đang trở thành một vấn đề rất được quan tâm.

Như vậy, khu kinh tế – quốc phòng có hai hình thức, gồm: khu kinh tế – quốc phòng trên đất liền, ven biển và khu kinh tế – quốc phòng trên biển. Các khu kinh tế – quốc phòng đang phát huy rất tốt vai trò đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và ổn định quốc phòng – an ninh đất nước hiện nay.

Một số kết quả đạt được:

Một là, xây dựng được một hệ thống khu kinh tế – quốc phòng ở những địa bàn xung yếu trải dọc theo chiều dài đất nước, từ đất liền đến bờ biển, biển đảo của Tổ quốc.

Các khu kinh tế – quốc phòng được triển khai ở 21 tỉnh, thành/34 tỉnh, thành của cả nước, trải dài gần 2.000 km đường biên giới với diện tích trên 2 triệu ha8. Các khu kinh tế – quốc phòng thực sự đã trở thành những “bức tường thành”, những “phòng tuyến” vững chắc vừa khẳng định chủ quyền quốc gia, vừa bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước.

Mỗi khu kinh tế – quốc phòng đều có một Đoàn Kinh tế – quốc phòng phụ trách. Đoàn Kinh tế – quốc phòng là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ sản xuất xây dựng kinh tế, làm công tác dân vận, xây dựng cơ sở chính trị địa bàn, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, củng cố thế trận quốc phòng – an ninh… Đây là một trong những lực lượng quốc phòng quan trọng trên địa bàn chiến lược trọng điểm và là lực lượng nằm trong kế hoạch tác chiến phòng thủ Quân khu khi có tình huống.

Hai là, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất tại các khu kinh tế – quốc phòng.

Về xây dựng cơ sở hạ tầng, những địa bàn mà các Đoàn Kinh tế – quốc phòng phụ trách chủ yếu thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, giao thông đi lại khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở hạ tầng, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng tại mỗi địa bàn, như: đường giao thông, công trình thủy lợi (hồ, đập chứa nước), các trạm thủy điện nhỏ, các công trình nước sạch, trường học, bệnh xá, trại cây và con giống, các trung tâm văn hóa, thể thao… Hơn 20 năm triển khai xây dựng, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng đã xây dựng, bàn giao cho địa phương 202 tuyến đường giao thông với tổng chiều dài trên 2.400 km, 134 cầu bê tông và cầu treo, gần 30.000m2 nhà lớp học, 52 công trình cấp điện, 86 công trình cấp  nước, 58 trạm xá và 12 bệnh xá quân dân y kết hợp, 200 công trình thủy lợi vừa và nhỏ9. Ngoài ra, nhiều công trình đang tiếp tục triển khai và được đầu tư cơ sở hạ tầng khang trang, đời sống của người dân tại các khu kinh tế – quốc phòng có thay đổi rõ rệt.

Về phát triển sản xuất, việc đầu tư mở rộng các khu sản xuất, chăn nuôi tập trung là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của các khu kinh tế – quốc phòng. Các Đoàn Kinh tế – quốc phòng tổ chức các hoạt động phát triển sản xuất hỗ trợ cho người dân phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Một số khu kinh tế – quốc phòng trực tiếp tổ chức sản xuất, khai hoang trồng trọt và chăn nuôi, tiêu biểu như: Binh đoàn 1510 và Binh đoàn 1611. Ở các khu kinh tế – quốc phòng không trực tiếp tổ chức sản xuất tập trung, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng đã giúp Nhân dân khai hoang, cải tạo đồng ruộng, làm ruộng lúa nước, trồng đồng cỏ phục vụ chăn nuôi đại gia súc, tổ chức khuyến nông, khuyến lâm. Những nơi người dân không sản xuất được, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng tổ chức sản xuất để thu hút người dân đến sinh sống và sản xuất.

Đến năm 2022, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng đã triển khai 266 mô hình chăn nuôi cho 10.759 hộ dân, 18 mô hình trồng trọt cho 7.526 hộ dân; tổ chức 537 lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật cho 21.774 lượt người. Qua đó, góp phần giải quyết những vấn đề cấp thiết của người dân, giảm đáng kể tỷ lệ hộ nghèo tại địa bàn (có nơi tỷ lệ hộ nghèo từ 45% – 90% giảm xuống còn từ 10% – 30%)12. Nhờ hỗ trợ sản xuất tại các khu kinh tế – quốc phòng, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng đã bước đầu thay đổi tập quán canh tác, sinh hoạt của đồng bào chuyển từ nuôi lợn thả rông sang nuôi lợn nhốt chuồng, đưa trâu, bò ra khỏi gầm nhà sàn, trồng các giống cây ăn quả, xây lương thực cao sản, một số nơi đồng bảo chỉ biết chọc trỉa thì đã biết cày cấy, làm lúa nước…

Ba là, sắp xếp, bố trí dân cư, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.

Các điểm dân cư tập trung được hình thành, tại các khu kinh tế – quốc phòng, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng góp phần định canh, định cư, ổn định đời sống cho đồng bào dân tộc ở các vùng biên giới của Tổ quốc. Cơ cấu dân cư mới dọc biên giới được điều chỉnh, tạo nên thế trận quốc phòng – an ninh vững chắc. Các Đoàn Kinh tế – quốc phòng tổ chức đón nhận, đỡ đầu, sắp xếp ổn định, xây dựng được hàng trăm cụm làng, bản. Đến năm 2021, các khu kinh tế – quốc phòng cũng hoàn thành đỡ đầu, ổn định đời sống tại chỗ gần 70.000 hộ dân, đón nhận và sắp xếp gần 32.000 hộ dân, xây dựng mới 536 điểm dân cư tập trung13. Đáng kể nhất là việc các Đoàn Kinh tế – quốc phòng đã khôi phục được một số xã “trắng dân” ở khu vực biên giới.

Sau Chiến tranh Biên giới (năm 1979), một số xã ở khu vực biên giới không thể thành lập được đơn vị hành chính do không có dân ở hoặc quá ít dân sinh sống. Thực hiện nhiệm vụ, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng đến, phối hợp cùng với chính quyền địa phương đã sắp xếp và đón nhận hàng trăm hộ dẫn lên biên giới an cư lập nghiệp, hình thành nên các điểm dân cư mới. Đơn cử như Đoàn Kinh tế – quốc phòng 327 đã sắp xếp, đón nhận hàng trăm hộ dân lên biên giới sinh sống, phôi phục lại 2 xã Bắc Hải và Bắc Sơn… Hiện nay, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng vẫn đang tiếp tục hỗ trợ hàng chục nghìn hộ dân tại địa bàn khu kinh tế – quốc phòng có đời sống ổn định bền vững.

Phát triển văn hóa – xã hội, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng đã triển khai đưa phát thanh, truyền hình về tận thôn, bản. Mỗi Đoàn Kinh tế – quốc phòng đều lắp đặt từ 1 – 3 trạm thu phát truyền hình phục vụ đơn vị và phục vụ Nhân dân. Thông qua phát thanh – truyền hình, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến đồng bào, phổ biến kinh nghiệm sản xuất, thực hiện nếp sống mới…

Về y tế, đến nay, tất cả các Đoàn Kinh tế – quốc phòng đã có một hệ thống tổ chức quân y tương đối hoàn chỉnh từ tuyến đội sản xuất đến các đơn vị sản xuất. Các Đoàn Kinh tế – quốc phòng đều có các bệnh xá quân – dân y, trạm y tế quân – dân y nhằm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho cả quân nhân và Nhân dân. Mỗi Đoàn Kinh tế – quốc phòng triển khai từ 1 – 3 bệnh xá y tế quân – dân y kết hợp. Cán bộ y tế của các Đoàn Kinh tế – quốc phòng xuống tận các thôn, bản khám và phát thuốc cho Nhân dân. Các bệnh viện lớn của quân đội như: Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Bệnh viện Quân y 103, Bệnh viện Quân y 175, Bệnh viện Quân y 110, Bệnh viện Quân y 91… hỗ trợ cho các Đoàn Kinh tế – quốc phòng bằng cách đưa các đoàn y, bác sĩ đến các khu kinh tế – quốc phòng để khám bệnh, phát thuốc, hướng dẫn vệ sinh phòng dịch cho dân, những ca hiểm nghèo được đưa thẳng về các bệnh viện tuyến trên để cứu chữa kịp thời.

Đến năm 2022, Quân y các Đoàn Kinh tế – quốc phòng phối hợp với y tế địa phương khám bệnh cho 1.699.584 lượt người, tiêm chủng 82.630 lượt người, cấp cứu trên 12.000 bệnh nhân, phẫu thuật trên 15.000 trường hợp; đào tạo 350 nhân viên y tế thôn, bản; tổ chức 65 lớp tập huấn cho 2.000 nhân viên y tế thôn, bản; hỗ trợ đồng bào về trang bị y tế, tiền thuốc, tiền ăn; phối hợp với Bệnh viện 108, Bệnh viện 175… tổ chức nhiều đợt khám bệnh, phát thuốc miễn phí, tuyên truyền, hướng dẫn vệ sinh phòng dịch cho Nhân dân ở các khu kinh tế – quốc phòng14. Ngoài khám, chữa bệnh, các bệnh viên còn cử đội văn nghệ của đơn vị đến giao lưu với thôn, bản, tăng cường tinh thần đoàn kết quân – dân.

Về xây dựng chính quyền cơ sở, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng và lực lượng bộ đội biên phòng trên địa bàn đã góp phần tích cực trong việc củng cố hệ thống chính quyền cơ sở tại địa phương. Đến năm 2021, Đoàn Kinh tế – quốc phòng đã tham gia củng cố đảng bộ và chi bộ xã, giúp các địa phương kết nạp 519 đảng viên, 529 hội phụ nữ, 19 hội cựu chiến binh, cùng hàng nghìn tổ an ninh nhân dân và tổ hoà giải15.

Đến nay, các địa phương đã xây dựng được hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, phát triển đảng viên mới, hàng nghìn chi bộ, tổ chức chính trị – xã hội kiện toàn, củng cố hoạt động, đưa hoạt động đi vào nền nếp. Cùng với đó, các Đoàn Kinh tế – quốc phòng cũng tích cực huấn luyện lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, tham gia cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống thiên tai, cháy nổ, xây dựng khu vực phòng thủ.

Với những hoạt động rất tích cực của các Đoàn Kinh tế – quốc phòng tại các khu kinh tế – quốc phòng đã góp phần rất lớn tạo nên thế và lực mới cho quốc phòng – an ninh bảo vệ biên giới Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình triển khai các khu kinh tế – quốc phòng còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn.

(1) Sự chỉ đạo triển khai một số nội dung đầu tư tại các khu kinh tế – quốc phòng nóng vội, chưa bám sát mục tiêu. Trong việc phối hợp với chính quyền và nhân dân địa phương, một số Đoàn Kinh tế – quốc phòng chưa tạo được sự đồng thuận trong thực hiện dự án, nhất là vấn đề giao đất, giao rừng, vấn đề di cư. Một vài đơn vị sản xuất thể hiện sự nóng vội, khiên cưỡng trong vấn đề giao đất, giao rừng, vấn đề di cư nên đã tạo ra sự thắc mắc và phản ứng trong dân; đồng thời cũng làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai dự án. Việc lồng ghép các dự án thuộc khu kinh tế – quốc phòng với các dự án khác có mục tiêu xóa đói, giảm nghèo do Nhà nước đầu tư trên địa bàn còn nhiều hạn chế. Một số Đoàn Kinh tế – quốc phòng chưa làm tốt công tác đỡ đầu để giúp đồng bào xóa đói, giảm nghèo.

Vấn đề quan trọng nhất giúp đồng bào xóa đói, giảm nghèo là làm dịch vụ 2 đầu (cung ứng vật tư, giống, hướng dẫn kỹ thuật và tạo điều kiện để bà con tiêu thụ sản phẩm làm ra) thì một số Đoàn Kinh tế – quốc phòng vẫn chưa làm tốt hoặc hiệu quả không cao. Đến nay, một số Đoàn Kinh tế – quốc phòng vẫn chưa được chủ động trong việc lựa chọn hạng mục ưu tiên đầu tư, vai trò trong quản lý dự án chưa rõ nét. Tình hình này vừa làm hạn chế tính thiết thực của các hạng mục được đầu tư, vừa làm giảm vị thế của Đoàn Kinh tế – quốc phòng với dân trong vận động quần chúng và xây dựng địa bàn.

(2) Quan hệ của Đoàn Kinh tế – quốc phòng với địa phương có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Ở các khu kinh tế – quốc phòng không sản xuất tập trung, có nơi sự gắn kết với chính quyền địa phương chưa thật chặt chẽ nên kế hoạch và hoạt động của Đoàn Kinh tế – quốc phòng chưa gắn được vào kế hoạch của địa phương, kết quả hoạt động của Đoàn chưa được đánh giá trong tổng thể hoạt động xây dựng kinh tế – xã hội và xóa đói, giảm nghèo của địa phương. Sự phối hợp giữa khu kinh tế – quốc phòng với Ban Chấp hành Quân sự tỉnh ở một số nơi còn lỏng lẻo. Ở những nơi này, cả khu kinh tế – quốc phòng và Ban Chấp hành Quân sự tỉnh chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của sự gắn bó giữa các lực lượng quân đội cùng đóng quân trên địa bàn, do đó làm hạn chế đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ quân sự và hiệu quả hoạt động xóa đói, giảm nghèo.

Một số đơn vị chưa quan tâm đến việc sử dụng tiếng đồng bào dân tộc tại chỗ và sử dụng cán bộ là người dân tộc tại chỗ. Đa số các khu kinh tế – quốc phòng đã tổ chức học tiếng của đồng bào, nhưng ở một số Đoàn, ít người có thể giao tiếp trực tiếp với đồng bào dân tộc nơi địa bàn của mình công tác. Cán bộ, chiến sĩ là người dân tộc tại chỗ trong các khu kinh tế – quốc phòng lại càng ít. Điều này đã hạn chế hiệu quả công tác dân vận, nắm tình hình địa bàn và giải quyết các tình huống.

4. Một số giải pháp

Một là, phát triển nâng cao hiệu quả xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng gắn với xây dựng khu vực phòng thủ, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Tập trung đầu tư và nâng cao hiệu quả xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng trọng điểm trên các địa bàn chiến lược vùng biển, đảo, vành đai biên giới, địa bàn xung yếu. Xây dựng khu kinh tế – quốc phòng bảo đảm phù hợp với quy hoạch, gần với thế trận quốc phòng, an ninh khu vực phòng thủ, các khu căn cứ hậu cần kỹ thuật cấp chiến dịch, chiến lược. Xác định chương trình xây dựng khu kinh tế – quốc phòng theo quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là một chương trình trọng điểm của quốc gia. Ưu tiên tập trung xây dựng phát triển các khu kinh tế – quốc phòng trọng điểm chiến lược, biển, đảo…

Hai là, đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các Đoàn kinh – quốc phòng. Tổ chức lực lượng Đoàn Kinh tế – quốc phòng tinh, gọn, mạnh, đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao, trở thành lực lượng nòng cốt tham gia xây dựng hệ thống chính trị địa phương vững mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, tham gia xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn… tham gia xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, thực hiện nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu và chiến đấu khi có tình huống. Tiếp tục thực hiện chủ trương khuyến khích phát huy vai trò của đội ngũ thanh niên, trí thức trẻ tỉnh nguyện tham gia xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng.

Ba là, xây dựng cơ chế phối hợp với các địa phương trong quản lý, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia. Phát huy nguồn lực của địa phương và các thành phần kinh tế tham gia xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng; hoàn thiện cơ chế chính sách, ưu đãi cho các doanh nghiệp quân đội thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trên địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, tạo thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

5. Kết luận

Khu kinh tế – quốc phòng là một biểu hiện sinh động và rất điển hình về kết hợp kinh tế – xã hội với quốc phòng – an ninh trên địa bàn chiến lược; về quân đội thực hiện ba chức năng chiến đấu, công tác và lao động sản xuất trên địa bàn; về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, nơi biên cương của Tổ quốc. Đây là một chủ trương đúng và trúng, phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam trong giai đoạn mới.

Các khu kinh tế – quốc phòng ra đời đã và đang đáp ứng rất tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng ở những địa bàn xung yếu của Tổ quốc dọc biên giới đất liền, trên biển, hải đảo. Các khu kinh tế – quốc phòng dần trở thành điểm sáng về kinh tế, văn hóa, xã hội, thế trận lòng dân được tạo dựng. Từ những nơi dân cư thưa thớt, cơ sở hạ tầng kém phát triển, đời sống nhân dân địa phương gặp rất nhiều khó khăn và đặc biệt là nơi các thế lực thù địch lôi kéo, chia rẽ dân tộc, gây ra những bất ổn về chính trị. Sau hơn 20 năm xây dựng, các khu kinh tế – quốc phòng đã có cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng khang trang, mạng lưới điện, đường, trường, trạm được hoàn thiện, dân cư được đưa ra sinh sống, bố trí lại dân cư thành các cụm làng, xã, thôn, bản theo quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội gắn với quốc phòng – an ninh. Đồng bào được hướng dẫn định canh, định cư, tổ chức sản xuất. Đời sống của Nhân trên địa bàn các khu kinh tế – quốc phòng ổn định và từng bước có sự thay đổi tích cực. Đặc biệt là những khu vực tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội rất phức tạp, từ khi có các Đoàn Kinh tế – quốc phòng tình hình ổn định, không có vụ việc về an ninh chính trị, hạn chế vượt biên, truyền đạo trái phép, di chuyển dân cư tự do.

Các Đoàn Kinh tế – quốc phòng trở thành chỗ dựa cho Nhân dân và chính quyền địa phương nơi đóng quân, hình thành thế trận quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc biên giới và biển đảo của Tổ quốc. Đoàn Kinh tế – quốc phòng là đơn vị quân đội do Bộ Quốc phòng thành lập để triển khai mục tiêu, nhiệm vụ của dự án đầu tư xây dựng khu kinh tế – quốc phòng. Đoàn Kinh tế – quốc phòng thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ, chức năng của Quân đội nhân dân Việt Nam là chiến đấu, công tác và sản xuất. Tại các khu kinh tế – quốc phòng, Đoàn Kinh tế – quốc phòng vừa làm công tác dân vận, góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, củng cố thế trận quốc phòng – an ninh vừa tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, làm trung tâm điều phối các hoạt động trong khu kinh tế, đồng thời sẵn sàng chiến đấu khi có tình huống. Sự ra đời của các Đoàn Kinh tế – quốc phòng tại những điểm “nóng”, những điểm nhạy cảm có ý nghĩa rất quan trọng. Các Đoàn Kinh tế – quốc phòng có vai trò và vị trí rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh ở các khu kinh tế – quốc phòng và cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

*Bài viết là sản phẩm của Đề tài khoa học cấp cơ sở “Quân đội tham gia xây dựng kinh tế giai đoạn 1998 – 2020”.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 188.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 151.
3. Địa lý Việt Nam. https://vi.wikipedia.org, truy cập ngày 30/9/2025.
4, 5. Bộ Quốc phòng, Cục Kinh tế (2006). Báo cáo tổng kết quân đội xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng giai đoạn 1998 – 2006 trong Xây dựng khu Kinh tế quốc phòng giai đoạn 1998 – 2006, tr. 69, 70.
6. Nguyễn Duy Phương (2018). Đảng bộ quân đội lãnh đạo xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng từ năm 1998 đến năm 2021. Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị, tr. 92 – 94.
7, 8, 9, 13, 15. Cục Kinh tế, Bộ Quốc phòng (2021). Phụ lục số 3, Các thành tựu tiêu biểu trong những năm qua của các đơn vị, doanh nghiệp quân đội. Đề án Quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng trong tình hình mới, tr. 25, 43, 43, 43, 43.
10. Binh đoàn 15 phấn đấu nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế – quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên. https://tapchiqptd.vn/vi/an-pham-tap-chi-in/binh-doan-15-phan-dau-nang-cao-hieu-qua-thuc-hien-nhiem-vu-kinh-tequoc-phong-tren-dia-ban-tay-nguyen/2754.html
11. Dấu ấn Binh đoàn 16 nơi “phên giậu” xanh. https://www.qdnd.vn/nuoi-duong-van-hoa-bo-doi-cu-ho/dau-an-binh-doan-16-noi-phen-giau-xanh-806037
12, 14. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các đoàn KTQP đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. https://tapchicongsan.org.vn/en_US/web/guest/gop-y-du-thao-cac-van-kien-trinh-dai-hoi-xiii-cua-dang/-/2018/825810/view_content#