Nâng cao chất lượng công tác trợ giúp pháp lý tại Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước số 1 TP. Hồ Chí Minh

Nguyễn Thị Thanh Thảo
Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước số 1 Thành phố Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh cải cách tư pháp và chuyển đổi số quốc gia, việc nâng cao chất lượng công tác trợ giúp pháp lý có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý, công bằng xã hội và thực hiện phương châm “không ai bị bỏ lại phía sau”. Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước số 1 TP. Hồ Chí Minh thuộc hệ thống trợ giúp pháp lý của Thành phố, không chỉ cung cấp dịch vụ về trợ lý pháp lý đơn thuần mà còn là đơn vị tham mưu và thực thi các chính sách công về công bằng xã hội. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn tồn tại hạn chế nhất định. Vì vậytrong thời gian tới, cần nghiên cứu cũng như đề xuất một số giải pháp nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng một trung tâm hiện đại, minh bạch và phục vụ hiệu quả nhu cầu pháp lý của người dân.

Từ khóa: Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước số 1 TP. Hồ Chí Minh; chất lượng; công tác trợ giúp pháp lý.

1. Đặt vấn đề

Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước số 1 TP. Hồ Chí Minh (gọi tắt là Trung tâm) có gần 27 năm hình thành và phát triển, bắt đầu từ việc thực hiện Nghị định số 07/NĐ-CP ngày 29/01/1998 của Chính phủ về hoạt động trợ giúp pháp lý. Tiền thân là Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước TP. Hồ Chí Minh, đơn vị mang sứ mệnh “luôn luôn đi cùng dân”, trở thành chỗ dựa pháp lý tin cậy cho người nghèo, gia đình chính sách và các nhóm yếu thế trên địa bàn Thành phố. Là một trong những đơn vị tiên phong trên toàn quốc, Trung tâm không chỉ thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí mà còn tham mưu, đề xuất và thực thi các chính sách công về công bằng xã hội, góp phần khẳng định hiệu lực và hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Trung tâm hiện có 24 viên chức, gồm 13 trợ giúp viên pháp lý và 11 chuyên viên, cùng gần 300 luật sư ký hợp đồng, tạo nên mô hình quản lý nguồn lực giữa khu vực công và tư, vừa bảo đảm quy mô phục vụ, vừa giữ vững tính chuyên nghiệp và kiểm soát chất lượng1. Trung tâm luôn thể hiện tinh thần tiên phong trong cải cách hành chính, tiêu biểu là sáng kiến “Công trình thi đua cải cách hành chính giải quyết thủ tục tố tụng ngay trong ngày”, giúp rút ngắn thời gian xử lý từ ba ngày xuống còn một ngày, góp phần nâng cao hiệu quả phục vụ và bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho người yếu thế. Chính vì vậy, trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức cộng đồng về quyền được trợ giúp pháp lý, đặc biệt, thông qua mạng lưới cộng tác viên, các tổ chức hành nghề luật sư ký kết hợp tác và các điểm tư vấn pháp lý ở cơ sở, Trung tâm đã trở thành cầu nối quan trọng giữa chính quyền và người dân trong thực hiện chính sách pháp luật; đồng thời, phối hợp giữa Sở Tư pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng, tổ chức xã hội và đoàn thể, bảo đảm hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện đúng quy trình, đúng đối tượng và kịp thời.

Trong xu thế chuyển đổi số của ngành Tư pháp, Trung tâm đã chủ động ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, lưu trữ và xử lý hồ sơ, góp phần minh bạch hóa hoạt động và nâng cao năng suất làm việc. Việc triển khai phần mềm quản lý vụ việc, tư vấn trực tuyến và tiếp nhận phản ánh của người dân qua nền tảng số đã giúp rút ngắn thời gian giải quyết, tiết kiệm chi phí, đồng thời mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ pháp lý cho người dân. Nhờ đó, Trung tâm ngày càng khẳng định vị thế là đơn vị nòng cốt của thành phố trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý công, góp phần bảo đảm công bằng xã hội, tăng cường niềm tin của Nhân dân vào chính sách pháp luật của Nhà nước, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng nền hành chính phục vụ, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả.

2. Thực trạng công tác trợ giúp pháp lý tại Trung tâm 

2.1. Những kết quả đạt được

Thứ nhất, nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý theo hướng lấy người dân làm trung tâm và tăng cường trách nhiệm giải trình.

Trong bối cảnh quản lý công hiện đại, Trung tâm đã có bước chuyển quan trọng trong tư duy quản trị và đánh giá chất lượng dịch vụ, từ mô hình kiểm soát quy trình sang mô hình đánh giá hiệu quả đầu ra dựa trên sự hài lòng của người thụ hưởng. Việc đổi mới theo định hướng “lấy người dân làm trung tâm” của Trung tâm, coi mức độ hài lòng là thước đo cuối cùng cho hiệu quả của hoạt động trợ giúp pháp lý không chỉ phù hợp với tinh thần của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 mà còn bám sát tiêu chí đánh giá được quy định tại Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2028 của Bộ Tư pháp, trong đó hiệu quả đạt được và sự hài lòng của người dân là hai yếu tố cốt lõi phản ánh chất lượng dịch vụ công.

Cơ chế trách nhiệm giải trình cũng được Trung tâm đặc biệt coi trọng, xem đây là yếu tố nền tảng để bảo đảm tính minh bạch và hiệu lực trong hoạt động. Trung tâm đã từng bước xây dựng quy trình đánh giá nội bộ, trong đó kết quả mỗi vụ việc không chỉ được xem xét về mặt pháp lý mà còn được ghi nhận qua phản hồi của người được trợ giúp. Cách tiếp cận này tạo nên một cơ chế giám sát hai chiều: từ phía cơ quan quản lý và từ chính người dân, góp phần hình thành văn hóa trách nhiệm và công khai trong thực thi công vụ. 

Trung tâm cũng chú trọng nâng cao năng lực đội ngũ trợ giúp viên và luật sư hợp đồng nhằm duy trì chất lượng dịch vụ đồng đều giữa nguồn nhân lực công và tư. Các khóa tập huấn, đánh giá định kỳ và kiểm tra chéo nội bộ được tổ chức thường xuyên, giúp củng cố kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp hành chính và kỹ năng xử lý tình huống pháp lý. Đặc biệt, việc thiết lập hệ thống giám sát nội bộ và phản hồi người dân giúp Trung tâm duy trì chỉ số hài lòng ở mức cao và ổn định. 

Nhờ cách tiếp cận quản lý dựa trên kết quả và sự hài lòng của người dân, Trung tâm đã sớm tạo ra chuyển biến tích cực trong toàn bộ hệ thống hoạt động. Người dân không còn là “đối tượng thụ hưởng” thụ động mà trở thành chủ thể đồng hành trong việc giám sát, phản hồi và góp phần hoàn thiện chất lượng dịch vụ. Về phía cơ quan cung ứng, mỗi cán bộ, trợ giúp viên đều nhận thức rõ trách nhiệm giải trình của mình trước người dân và cơ quan quản lý, từ đó nâng cao tinh thần phục vụ, tính chuyên nghiệp và ý thức tuân thủ quy trình. 

Thứ hai, nâng cao hiệu suất cung ứng dịch vụ trợ giúp pháp lý trên ba hình thức hoạt động chủ đạo.

Hoạt động của Trung tâm trong giai đoạn 2018 – 2024 thể hiện rõ định hướng đổi mới theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả và lấy người dân làm trung tâm. 

(1) Về hoạt động tư vấn tại trụ sở.

Đây là hình thức cơ bản, trực tiếp tiếp nhận, xử lý và giải đáp các yêu cầu trợ giúp pháp lý của người dân. Trong giai đoạn vừa qua, Trung tâm ghi nhận một kết quả ấn tượng: 100% người dân đến liên hệ đánh giá hài lòng với chất lượng cung ứng dịch vụ. Chỉ số hài lòng tuyệt đối này là minh chứng rõ nét nhất cho hiệu quả của mô hình quản lý chất lượng theo hướng phục vụ và lấy người dân làm trung tâm. 

Việc ứng dụng công nghệ vào khâu tiếp nhận và xử lý hồ sơ, rút ngắn thời gian chờ đợi cũng như tự động hóa các bước thủ tục hành chính là hướng đi mà Trung tâm đang đẩy mạnh. Trong điều kiện sáp nhập mở rộng phạm vi hoạt động, việc duy trì chỉ số hài lòng 100% trở thành thách thức lớn về quản lý chất lượng. Do đó, Trung tâm đã thiết lập cơ chế kiểm tra chéo, đánh giá nội bộ định kỳ và tập huấn kỹ năng giao tiếp công vụ cho trợ giúp viên mới. Mục tiêu là bảo đảm mọi cán bộ, dù công tác tại bộ phận nào đều tuân thủ các chuẩn mực ứng xử, quy trình và thời hạn giải quyết vụ việc, từ đó, củng cố niềm tin của người dân đối với cơ quan nhà nước.

(2) Về hoạt động tư vấn pháp luật lưu động và truyền thông tại cộng đồng.

Hình thức này thể hiện rõ tinh thần chủ động của Trung tâm trong việc đưa pháp luật đến gần người dân hơn, phù hợp với định hướng “Nhà nước phục vụ”. Trong đó, chủ động tổ chức các buổi tư vấn, tuyên truyền pháp luật trực tiếp tại cơ sở, vùng ven, khu công nghiệp và khu dân cư có đông lao động nhập cư. Nhờ đó, phạm vi và đối tượng thụ hưởng được mở rộng, nhất là với nhóm yếu thế, người nghèo, phụ nữ bị bạo lực gia đình, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số. Số cuộc truyền thông tăng mạnh từ 49 cuộc (năm 2018) lên 376 cuộc (năm 2024), thu hút hơn 76.920 người tham dự2

Việc mở rộng quy mô truyền thông không chỉ giúp phổ biến kiến thức pháp luật đến nhiều tầng lớp nhân dân mà còn tạo ra tác động xã hội sâu rộng, góp phần hình thành văn hóa pháp lý và ý thức tuân thủ pháp luật trong cộng đồng. Đặc biệt, qua việc tiếp cận pháp luật tại chỗ giúp người dân nhận diện sớm rủi ro, được tư vấn kịp thời, từ đó giảm thiểu tranh chấp, khiếu kiện và chi phí xã hội phát sinh.

Việc tập trung vào hoạt động lưu động và truyền thông cũng giúp Trung tâm hiện thực hóa mục tiêu tăng cường tính bao trùm của dịch vụ công, bảo đảm rằng mọi người dân, đặc biệt là người ở vùng sâu, vùng khó khăn đều có cơ hội tiếp cận pháp luật bình đẳng. 

(3) Về chất lượng tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng.

Hoạt động tố tụng là lĩnh vực thể hiện rõ nhất năng lực chuyên môn và giá trị pháp lý của Trung tâm. Trong giai đoạn 2018 – 2024, trên 90% vụ án hình sự do Trung tâm tham gia đều có kết quả tích cực, qua đó, bảo vệ hiệu quả quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo thuộc diện được trợ giúp pháp lý. Tỷ lệ thành công chung của các vụ việc đạt 54,72% đối với trợ giúp viên pháp lý và 54,92% đối với luật sư hợp đồng3, điều này ghi nhận tính hiệu lực của cơ chế quản lý chất lượng và hiệu suất hợp đồng dịch vụ công, khẳng định Trung tâm đã xây dựng được quy trình giám sát chặt chẽ, bảo đảm không có sự chênh lệch đáng kể giữa lực lượng nhà nước và khu vực hợp tác tư nhân.

Ngoài ra, hình thức đại diện ngoài tố tụng cũng được đẩy mạnh, giúp giải quyết hiệu quả các xung đột hành chính, dân sự mà không cần khởi kiện ra Tòa án. Qua đó, không chỉ tiết kiệm đáng kể chi phí cho ngân sách nhà nước mà còn giảm tải áp lực cho hệ thống tư pháp, đồng thời thúc đẩy các giải pháp hòa giải, hướng tới đồng thuận xã hội. Trong bối cảnh khối lượng công việc ngày càng lớn, việc Trung tâm vẫn duy trì được tỷ lệ thành công cao và tính nhất quán trong kết quả giải quyết vụ việc cho thấy năng lực tổ chức và điều hành hiệu quả.

Thành công trong hoạt động tố tụng được đo bằng tỷ lệ thắng kiện và còn thể hiện qua việc thực thi nghiêm túc các nguyên tắc bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong tố tụng theo Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Việc bảo đảm quyền bào chữa, quyền được xét xử công bằng cho người yếu thế chính là minh chứng cho giá trị nhân văn và tính chính danh của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 

2.2. Một số hạn chế, thách thức trong hoạt động trợ giúp pháp lý tại Trung tâm 

Một là, về thể chế, quy trình và khung chính sách thực thi. Theo quy định Luật Trợ giúp pháp lýnăm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn chưa theo kịp thực tiễn, nhất là các quy định về định mức chi phí vụ việc, chế độ thù lao, hỗ trợ cho luật sư hợp đồng và cộng tác viên pháp lý. Hạn chế này khiến Trung tâm gặp khó khăn trong việc huy động nguồn lực xã hội, đặc biệt là thu hút luật sư có chuyên môn cao tham gia vào các vụ việc phức tạp. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp giữa Trung tâm với các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thật sự thống nhất, đôi khi còn xảy ra độ trễ trong khâu tiếp nhận, xác minh hồ sơ hoặc cử người thực hiện trợ giúp pháp lý. Về quy trình nghiệp vụ, một số thủ tục vẫn còn thủ công, thiếu tự động hóa, gây kéo dài thời gian xử lý vụ việc. Các biểu mẫu, quy định nội bộ về thời hạn giải quyết hồ sơ, giám sát kết quả vụ việc vẫn chưa được chuẩn hóa hoàn toàn, ảnh hưởng đến khả năng đo lường hiệu quả và minh bạch của hoạt động trợ giúp pháp luật.

Hai là, nguồn nhân lực, năng lực chuyên môn và điều kiện làm việc. Đội ngũ nhân sự của Trung tâm gồm trợ giúp viên pháp lý, chuyên viên, cộng tác viên và luật sư hợp đồng phải đảm nhiệm cùng lúc nhiều hồ sơ, từ tham gia tố tụng, tư vấn tại trụ sở đến truyền thông pháp luật tại cơ sở. Khối lượng công việc lớn trong khi nhân lực hạn chế, dẫn đến nguy cơ quá tải, ảnh hưởng đến độ sâu và tính chuyên nghiệp trong từng vụ việc. Công tác đào tạo, bồi dưỡng tuy được chú trọng nhưng chưa mang tính hệ thống, thiếu các chương trình huấn luyện định kỳ về kỹ năng tranh tụng, kỹ năng hòa giải, tâm lý học pháp lý và kỹ năng giao tiếp công vụ. Bên cạnh đó, chính sách đãi ngộ, phụ cấp, chế độ khen thưởng chưa đủ hấp dẫn để thu hút và giữ chân đội ngũ nhân sự chất lượng cao. Nhiều luật sư hợp đồng chỉ tham gia ngắn hạn do thù lao thấp và thiếu cơ chế động viên phù hợp.

Cơ sở vật chất và hạ tầng kỹ thuật cũng là một điểm hạn chế đáng lưu ý; phần mềm quản lý vụ việc trợ giúp pháp lý còn hạn chế về tính năng, chưa tích hợp dữ liệu báo cáo tự động hay chức năng đánh giá trực tuyến. Hệ thống máy chủ, đường truyền và bảo mật chưa đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu lưu trữ và xử lý hồ sơ điện tử ngày càng tăng. Điều này ảnh hưởng đến tiến độ số hóa hồ sơ và khả năng quản lý thông tin theo thời gian thực, khiến hiệu quả vận hành chưa tương xứng với yêu cầu của một trung tâm đầu ngành.

Ba là, công tác truyền thông, tiếp cận dịch vụ và giám sát chất lượng. Mức độ nhận thức của người dân về quyền được trợ giúp pháp lý vẫn chưa cao. Hệ thống kênh thông tin của Trung tâm tuy đa dạng nhưng còn thiếu sự đồng bộ; các nền tảng truyền thông số chưa được khai thác triệt để để người dân có thể dễ dàng tra cứu, gửi yêu cầu hoặc phản ánh chất lượng dịch vụ. Bên cạnh đó, cơ chế giám sát nội bộ tuy đã hình thành nhưng chưa có hệ thống phản hồi trực tuyến theo thời gian thực, dẫn đến việc tiếp nhận và xử lý ý kiến người dân đôi khi chậm, chưa tạo được kênh tương tác linh hoạt giữa cơ quan cung ứng và người thụ hưởng. Việc giám sát, đánh giá định kỳ chưa hoàn toàn dựa trên bằng chứng định lượng từ khảo sát người thụ hưởng, làm giảm khả năng phản hồi chính sách và cải tiến quy trình. 

Ngoài ra, sự tham gia của các tổ chức xã hội, đoàn thể và doanh nghiệp trong việc xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý còn hạn chế; chưa hình thành mạng lưới liên kết bền vững để hỗ trợ chia sẻ nguồn lực, kinh nghiệm và kênh truyền thông pháp luật rộng rãi hơn trong cộng đồng.

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý tại Trung tâm

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, chính sách và tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trợ giúp pháp lý.

Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động trợ giúp pháp lý trực tuyến, phù hợp với tinh thần của dự thảo Đề án “Nâng cao vai trò, hiện đại hóa, phát triển trợ giúp pháp lý đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Việc sớm ban hành các quy định cụ thể về giá trị pháp lý của hồ sơ điện tử, quy trình xác minh đối tượng và cơ chế phối hợp đặc thù cho địa bàn mở rộng sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc để hợp thức hóa dịch vụ trợ giúp pháp lý trên môi trường số. Đây là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm tính hợp pháp, an toàn và khả năng kiểm soát chất lượng của dịch vụ công trong không gian mạng; đồng thời khắc phục những rào cản hiện nay trong việc xác minh, lưu trữ và xử lý hồ sơ điện tử. Bên cạnh đó, việc thí điểm cơ chế pháp lý linh hoạt ở phạm vi thành phố sẽ giúp Trung tâm chủ động thử nghiệm các mô hình dịch vụ mới, hướng đến mục tiêu “chính quyền số, công dân số” trong lĩnh vực tư pháp.

Cần chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ và tiêu chí kiểm soát chất lượng trợ giúp pháp lý trên toàn địa bàn không chỉ dừng lại ở khâu kiểm tra hình thức mà phải chuyển sang phương thức quản lý dựa trên kết quả, trong đó các chỉ số như hiệu quả vụ việc, thời gian xử lý, mức độ hài lòng của người dân và tính toàn vẹn của hồ sơ điện tử được sử dụng làm thước đo chính. Quy trình kiểm soát chất lượng cần được số hóa toàn diện, cho phép giám sát tiến độ, đo lường hiệu suất và trách nhiệm giải trình của từng trợ giúp viên. Ngoài ra, cần ban hành bộ tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý thống nhất giữa các đơn vị, làm cơ sở cho công tác thanh tra, đánh giá và cải tiến dịch vụ. 

Thứ hai, nâng cao năng lực đội ngũ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thích ứng với chuyển đổi số.

Trung tâm cần thống nhất tổ chức và bảo đảm ổn định nhân sự sau quá trình sáp nhập, hướng tới xây dựng một mô hình tổ chức tinh gọn, đồng bộ và hiệu quả. Việc sắp xếp lại bộ máy giữa các trung tâm cũ phải được thực hiện công tâm, minh bạch, dựa trên năng lực thực tiễn và kinh nghiệm của từng cá nhân. Người đứng đầu cần thể hiện vai trò lãnh đạo chuyển đổi, tạo môi trường làm việc đoàn kết, khuyến khích tinh thần phục vụ công bằng, tận tụy và liêm chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, cần triển khai các chương trình đào tạo toàn diện, kết hợp giữa bồi dưỡng chuyên môn sâu và phát triển kỹ năng số. Việc đào tạo phải gắn với nhu cầu thực tiễn, tập trung vào các kỹ năng cốt lõi, như: ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hồ sơ, sử dụng phần mềm thống nhất, khai thác dữ liệu pháp lý trực tuyến và vận hành quy trình hành chính điện tử. 

Bên cạnh đó, cần chú trọng đào tạo kỹ năng mềm, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp, tư vấn, tranh tụng, hòa giải và hỗ trợ nhóm yếu thế như người khuyết tật, người cao tuổi, phụ nữ bị bạo lực, lao động nhập cư. Ngoài ra, cần tăng cường năng lực phối hợp liên ngành cho đội ngũ trợ giúp viên, luật sư hợp đồng và cán bộ tư pháp, bảo đảm sự thống nhất trong xử lý vụ việc từ giai đoạn tiếp nhận đến tố tụng. Việc duy trì cơ chế phối hợp hiệu quả với các cơ quan tiến hành tố tụng theo Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 là cơ sở để nâng cao chất lượng hỗ trợ pháp lý cho người dân, đặc biệt trong các vụ án phức tạp.

Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong toàn bộ quy trình trợ giúp pháp lý.

Xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung và liên thông toàn Thành phố, tích hợp thông tin từ các trung tâm cũ về hồ sơ vụ việc, đối tượng thụ hưởng, kết quả giải quyết và dữ liệu phối hợp liên ngành. Cơ sở dữ liệu này phải được kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các hệ thống dữ liệu ngành tư pháp, qua đó, rút ngắn thời gian xác minh đối tượng, giảm thủ tục hành chính và nâng cao tính kịp thời của dịch vụ. Việc quản lý bằng dữ liệu tập trung giúp Trung tâm có khả năng phân tích nhu cầu trợ giúp pháp lý theo từng khu vực, dự báo xu hướng tranh chấp pháp lý và phân bổ nguồn lực nhân sự, tài chính một cách khoa học, hiệu quả.

Phát triển các nền tảng dịch vụ số thân thiện với người dân, bao gồm: cổng thông tin điện tử, ứng dụng di động và hệ thống tư vấn trực tuyến, cho phép người dân gửi yêu cầu, nộp hồ sơ, tra cứu tiến độ hoặc đặt lịch hẹn trực tiếp trên môi trường số. Việc đưa trợ giúp pháp lý lên nền tảng số sẽ mở rộng phạm vi phục vụ, bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tiếp cận công lý, đúng với định hướng “Nhà nước phục vụ” trong cải cách hành chính hiện đại. Bên cạnh đó, cần ứng dụng các công cụ phân tích thông minh và trí tuệ nhân tạo (AI) trong quá trình tra cứu pháp luật, hỗ trợ soạn thảo văn bản, gợi ý hướng giải quyết vụ việc và tự động hóa các tác vụ hành chính. Đồng thời, tăng cường bảo mật và an toàn thông tin dữ liệu số, triển khai công cụ giám sát, đánh giá chất lượng vụ việc theo thời gian thực để từ đó giúp củng cố tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và uy tín của trợ giúp pháp lý nhà nước trong môi trường số.

Thứ tư, tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức và đa dạng hóa hình thức tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý.

Trong bối cảnh TP. Hồ Chí Minh mở rộng địa giới hành chính (theo Nghị quyết số 202/NQ-QH15 ngày 12/6/2025, sáp nhập TP. Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu và có tên gọi là TP. Hồ Chí Minh, theo đó, có sự chênh lệch lớn về điều kiện kinh tế – xã hội giữa các khu vực. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác truyền thông và mở rộng tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý đúng với tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong quá trình phát triển.

Trung tâm cũng cần chú trọng truyền thông đa kênh và định hướng mục tiêu rõ ràng, kết hợp giữa phương thức truyền thống và nền tảng số hiện đại. Ở khu vực trung tâm và đô thị nên tận dụng mạnh mẽ các công cụ trực tuyến, như: website, mạng xã hội, ứng dụng di động, báo điện tử, video ngắn, podcast… để tiếp cận người dân nhanh chóng và thân thiện. Trong khi đó, tại các vùng ven, khu công nghiệp hoặc khu dân cư mới sáp nhập, hình thức phát thanh, tờ rơi, truyền hình địa phương và các buổi tư vấn trực tiếp vẫn phát huy hiệu quả cao. Việc sử dụng dữ liệu khảo sát để xác định nhóm đối tượng mục tiêu giúp tối ưu hóa thông điệp truyền thông, tiết kiệm chi phí ngân sách và bảo đảm tính công bằng trong việc tiếp cận thông tin.

Trung tâm có thể phối hợp với Ủy ban nhân dân xã, phường để khảo sát nhu cầu pháp lý, tổ chức các phiên tòa giả định, tiểu phẩm pháp luật, tọa đàm chuyên đề hoặc lồng ghép trợ giúp pháp lý trong các sự kiện văn hóa – xã hội của địa phương. Đồng thời, cần xây dựng và phát huy vai trò “cầu nối cộng đồng” của đội ngũ cán bộ xã, phường và người có uy tín trong dân cư thông qua các chương trình tập huấn, hướng dẫn nhận biết và giới thiệu người dân thuộc diện được trợ giúp pháp lý. 

Thứ năm, bảo đảm nguồn lực, thúc đẩy xã hội hóa và tăng cường phối hợp liên ngành trong công tác trợ giúp pháp lý.

Thành phố cần có kế hoạch đầu tư ổn định cho cơ sở vật chất, trang thiết bị và hạ tầng công nghệ thông tin, đặc biệt tại các chi nhánh, văn phòng thuộc khu vực mới sáp nhập. Đồng thời, cần thúc đẩy xã hội hóa trợ giúp pháp lý thông qua việc huy động sự tham gia của các tổ chức hành nghề luật sư, công ty luật, trường đại học luật và các cá nhân tình nguyện. Việc ký kết quy chế phối hợp giữa Sở Tư pháp và Đoàn Luật sư Thành phố sẽ tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc cho mô hình hợp tác công – tư, vừa giảm gánh nặng ngân sách, vừa tăng tính chuyên nghiệp, đa dạng và linh hoạt trong cung ứng dịch vụ pháp lý miễn phí.

Sáng kiến “thụ lý hồ sơ và cử người thực hiện trợ giúp pháp lý ngay trong ngày” cần tiếp tục được nhân rộng như một mô hình hành chính kiểu mẫu, thể hiện tinh thần phục vụ nhanh chóng, hiệu quả và kịp thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người yếu thế. Việc phân cấp, ủy quyền cho Ủy ban nhân dân xã, phường trong công tác tiếp nhận, giới thiệu và hướng dẫn thủ tục trợ giúp pháp lý sẽ giúp rút ngắn quy trình, giảm tải cho cấp trung tâm; đồng thời, tăng tính chủ động của chính quyền cơ sở trong việc tiếp cận và hỗ trợ người dân. Việc thiết lập cơ chế giám sát bằng dữ liệu số và phản hồi trực tuyến từ người thụ hưởng giúp nâng cao trách nhiệm giải trình, tăng tính minh bạch và cải thiện chất lượng dịch vụ công. Ngoài ra, cần tăng cường phối hợp liên ngành trong hoạt động tố tụng và giám sát, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý được thực hiện đầy đủ, nhất quán trên toàn địa bàn..

4. Kết luận

Công tác trợ giúp pháp lý tại Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước số 1 TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2018 – 2024 đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, khẳng định vai trò nòng cốt của Trung tâm trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý của người dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế. Tuy nhiên, trong bối cảnh cải cách hành chính, chuyển đổi số và mở rộng địa giới hành chính qua quá trình sáp nhập, hoạt động này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về thể chế, nguồn lực và cơ chế quản trị. Việc nhận diện rõ những hạn chế và đề xuất các giải pháp mang tính hệ thống, từ hoàn thiện khung pháp lý, phát triển nguồn nhân lực, ứng dụng công nghệ số, mở rộng truyền thông đến xã hội hóa dịch vụ như trên là việc làm cần thiết để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng của hoạt động trợ giúp pháp lý của Trung tâm trong giai đoạn mới.

Chú thích:

1, 2, 3. Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước TP. Hồ Chí Minh (2025). Công văn số 526/TGPL-HCTH ngày 17/4/2025 về việc góp ý dự thảo Đề án “Nâng cao vai trò, hiện đại hóa, phát triển trợgiúp pháp lý đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” và báo cáo tổng kết Chiến lược phát triển trợgiúp pháp lý, Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý. 

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2018). Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng.

2. Quốc hội (2017). Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.

3. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.

4. Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh (2024). Báo cáo về hoạt động tư pháp (trong đó, có lĩnh vực Trợ giúp pháp lý).

5. Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước TP. Hồ Chí Minh (2017). Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Luật trợ giúp pháp lý.