TS. Phạm Văn Phong
Tạp chí Cộng sản
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong tiến trình đổi mới và hội nhập, Quốc hội Việt Nam với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân đang đứng trước yêu cầu chuyển mình mạnh mẽ. Đảng khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, trong đó, Quốc hội tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động theo hướng hiện đại, hiệu quả, dân chủ, pháp quyền. Điều này vừa là đòi hỏi khách quan của sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới, vừa là yếu tố quyết định để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, hoạt động của Quốc hội đã có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng cao, nhưng cơ chế kiểm soát quyền lực vẫn còn những bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước. Do đó, đổi mới Quốc hội “vì dân” và “kiến tạo vì nước” vừa là mục tiêu, vừa là động lực để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Từ khóa: Thực trạng, cải cách, tổ chức bộ máy, Quốc hội, đổi mới vì dân, kiến tạo vì nước.
1. Thực trạng cải cách tổ chức bộ máy Quốc hội và thực hiện chức năng giám sát tối cao
Những năm qua, tổ chức bộ máy của Quốc hội đã có những bước đổi mới đáng ghi nhận theo hướng tinh gọn đầu mối, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và nâng cao tính chuyên nghiệp. Sau khi Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Quốc hội đã tích cực triển khai thực hiện. Quốc hội (khóa XIV) đã ban hành Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 về việc cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước và đề xuất nhiệm vụ, giải pháp đổi mới, sắp xếp mô hình tổ chức bộ máy của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Trên cơ sở đó, Đảng đoàn Quốc hội đã chỉ đạo thực hiện một loạt đổi mới quan trọng, tiêu biểu, như:
Hợp nhất các văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, thực hiện thí điểm việc nhập 3 văn phòng làm một, giúp tinh giản đầu mối gắn kết hoạt động của đại biểu Quốc hội với HĐND địa phương, bảo đảm thông suốt trong phối hợp công tác. Việc hợp nhất này tạo điều kiện để đoàn đại biểu Quốc hội tại địa phương hoạt động hiệu quả hơn, gắn bó mật thiết với chính quyền và HĐND địa phương, đồng thời tiết kiệm nguồn lực.
Tinh giản biên chế và kiện toàn cơ quan giúp việc. Quốc hội đã thực hiện nghiêm chủ trương tinh giản ít nhất 10% biên chế so với năm 2015. Nhiều cơ quan tham mưu, giúp việc của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội được rà soát, sắp xếp lại. Thiết chế Tổng Thư ký Quốc hội và Ban Thư ký Quốc hội được hoàn thiện theo Luật Tổ chức Quốc hội giúp nâng cao hiệu quả điều hành các kỳ họp và hoạt động lập pháp, giám sát của Quốc hội. Văn phòng Quốc hội cũng thu gọn đầu mối bên trong, hạn chế chồng chéo chức năng. Những cải cách này góp phần làm cho bộ máy giúp việc của Quốc hội hoạt động nhịp nhàng, thông suốt hơn.
Tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách, một bước tiến quan trọng là việc sửa đổi Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2025) quy định số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ít nhất là 40% tổng số đại biểu, tăng 5% so với quy định cũ. Thay đổi này đã được áp dụng từ nhiệm kỳ Quốc hội (khóa XV), theo đó, số đại biểu chuyên trách ở Trung ương và địa phương đều tăng lên đáng kể. Chất lượng đại biểu cũng được chú trọng hơn. Hướng dẫn số 36-HD/BTCTW ngày 20/01/2021) của Ban Tổ chức Trung ương yêu cầu người ứng cử đại biểu Quốc hội phải là những cán bộ tiêu biểu, xuất sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực phân tích, hoạch định chính sách, có trình độ chuyên môn phù hợp và đủ thời gian dành cho công tác Quốc hội.
Đặc biệt, Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2025) đặt ra trách nhiệm cao hơn cho đại biểu chuyên trách, bắt buộc tham gia đầy đủ các hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách do Ủy ban Thường vụ Quốc hội triệu tập, coi đây là nghĩa vụ pháp lý của mình. Quy định này giúp nâng cao tính chuyên nghiệp và trách nhiệm của đội ngũ đại biểu chuyên trách; đồng thời, từng bước hướng tới một Quốc hội hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, hạn chế tình trạng kiêm nhiệm hình thức.
Đổi mới cách thức hoạt động của Quốc hội theo hướng hiện đại. Quốc hội đã từng bước ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, xây dựng Quốc hội điện tử. Hạ tầng công nghệ thông tin của Văn phòng Quốc hội được đầu tư, triển khai rộng rãi: hệ thống biểu quyết điện tử, hệ thống quản lý hồ sơ, cổng thông tin điện tử, họp trực tuyến, thư viện số, phần mềm lấy ý kiến nhân dân… đã đi vào nền nếp hoạt động. Nhờ đó, quy trình làm luật, thảo luận, biểu quyết được thực hiện khoa học, minh bạch và hiệu quả hơn. Đại biểu Quốc hội có thể khai thác thông tin nhanh chóng, phục vụ cho việc nghiên cứu, thẩm tra dự án luật cũng như giám sát. Chẳng hạn, việc biểu quyết thông qua luật bằng hệ thống điện tử không chỉ chính xác, công khai kết quả mà còn giúp cử tri giám sát lá phiếu của đại biểu mình bầu một cách thuận tiện. Đây là bước tiến quan trọng trong minh bạch hóa hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định của Quốc hội.
Những đổi mới trên đây đã mang lại chuyển biến tích cực. Bộ máy Quốc hội gọn nhẹ hơn, hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả hơn. Vai trò cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân được thể hiện rõ nét khi Quốc hội ngày càng gần dân, sát dân hơn: đại biểu Quốc hội tích cực về tiếp xúc cử tri, lắng nghe và truyền tải kịp thời ý kiến, nguyện vọng của Nhân dân tới diễn đàn Quốc hội. Chất lượng các kỳ họp Quốc hội được nâng lên rõ rệt; thảo luận, tranh luận sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ hơn trước. Quốc hội cũng phản ứng nhanh nhạy hơn trước các vấn đề lớn của đất nước, đã kịp thời thông qua nhiều quyết sách quan trọng nhằm tháo gỡ vướng mắc, khơi thông nguồn lực phát triển, ví dụ, như: quyết định về các dự án hạ tầng chiến lược (đường cao tốc Bắc – Nam, điều chỉnh quy hoạch đất đai, sắp xếp đơn vị hành chính…). Có thể khẳng định, những kết quả đổi mới tổ chức bộ máy thời gian qua đã góp phần nâng cao uy tín của Quốc hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn sự tin tưởng của Đảng, Nhà nước và kỳ vọng của cử tri.
Bên cạnh những kết quả tích cực, việc đổi mới tổ chức bộ máy Quốc hội vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục để đáp ứng đầy đủ yêu cầu của kỷ nguyên mới.
Một là, mặc dù Luật Tổ chức Quốc hội năm 2020 đã nâng tỷ lệ đại biểu chuyên trách tối thiểu lên 40% nhưng tỷ lệ này vẫn chưa thật sự đáp ứng yêu cầu. Trên thực tế, số lượng ĐBQH chuyên trách hiện nay chỉ khoảng 38 – 40% tổng số ĐBQH, nghĩa là vẫn còn tới 60% đại biểu kiêm nhiệm các công tác khác (ở cơ quan Đảng, Chính phủ, đoàn thể, địa phương…)1. Nhiều đại biểu kiêm nhiệm gặp khó khăn trong cân bằng thời gian giữa công tác Quốc hội và công việc chuyên môn, dẫn đến việc tham gia các hoạt động Quốc hội chưa thật sự sâu sát.
Hai là, cơ cấu tổ chức các cơ quan của Quốc hội còn một số điểm bất cập. Hiện nay, Quốc hội có 1 Hội đồng Dân tộc và 7 ủy ban, đã bao quát các lĩnh vực trọng yếu. Tuy nhiên, chức năng, nhiệm vụ giữa một số cơ quan đôi khi chưa rành mạch, có mặt còn chồng chéo hoặc phân tán. Ví dụ, vấn đề về dân tộc, tôn giáo do Hội đồng Dân tộc đảm trách nhưng cũng liên quan đến Ủy ban Pháp luật và Tư pháp, Ủy ban Văn hóa và Xã hội…; hay lĩnh vực phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay chưa có ủy ban chuyên trách (chủ yếu do Ủy ban Pháp luật và Tư pháp thực hiện một phần). Việc phân công nhiệm vụ chưa thực sự tối ưu có thể dẫn đến hiệu quả giám sát và thẩm tra chưa cao.
Ba là, chất lượng đội ngũ cán bộ tham mưu, giúp việc cho Quốc hội cần được nâng cao hơn. Mặc dù biên chế đã tinh giản 10% nhưng điều này cũng đặt ra thách thức về nhân lực. Một bộ phận cán bộ, công chức tại các cơ quan của Quốc hội chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là về kỹ năng nghiên cứu lập pháp, phân tích chính sách, giám sát chuyên ngành sâu. Số lượng chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực phức tạp (kinh tế số, biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống…) còn thiếu, khiến một số báo cáo thẩm tra hoặc kiến nghị giám sát chưa thật sắc sảo.
Bốn là, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ Quốc hội tuy đã được cải thiện nhưng vẫn cần đầu tư thêm để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao. Chẳng hạn, hạ tầng công nghệ thông tin tuy có nhưng chưa đồng bộ trên phạm vi cả nước, đặc biệt ở các Đoàn đại biểu Quốc hội địa phương. Vẫn còn tình trạng các đại biểu phải sử dụng báo cáo bản giấy, thông tin định kỳ, chưa được kết nối tức thời vào cơ sở dữ liệu điều hành của Chính phủ.
Năm là, mối quan hệ phối hợp giữa Quốc hội với các cơ quan khác trong hệ thống chính trị có lúc, có nơi chưa thật nhuần nhuyễn. Quốc hội chịu sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Chính phủ, Tòa án nhân dân tốt cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao… Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng luật hoặc tiến hành giám sát, có trường hợp phối hợp chưa tốt giữa cơ quan soạn thảo của Chính phủ với cơ quan thẩm tra của Quốc hội dẫn đến dự án luật chuẩn bị gấp, chất lượng chưa cao.
Về thực hiện chức năng giám sát tối caolà một trong ba chức năng hiến định của Quốc hội (bên cạnh lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng). Những năm gần đây, hoạt động giám sát của Quốc hội đã có nhiều đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung và hình thức, góp phần nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước. Có thể điểm qua một số nét nổi bật như sau:
Thứ nhất, chất lượng các phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Quốc hội được nâng cao rõ rệt. Các phiên chất vấn ở mỗi kỳ họp Quốc hội đều thu hút sự quan tâm đặc biệt của cử tri cả nước nhờ tính thẳng thắn, xây dựng và mang tính đối thoại cao. Những vấn đề “nóng” nổi lên trong đời sống kinh tế – xã hội (như: phòng, chống dịch bệnh, giá xăng dầu, chất lượng giáo dục, tình trạng tham nhũng, lãng phí…) đều được đại biểu đưa ra nghị trường chất vấn đến cùng.
Thứ hai, công tác giám sát chuyên đề của Quốc hội có nhiều cải tiến và ngày càng đi vào chiều sâu. Mỗi năm, Quốc hội đều lựa chọn 1-2 chuyên đề giám sát quan trọng, tập trung vào những lĩnh vực được cử tri quan tâm hoặc những vấn đề bức xúc cần chấn chỉnh. Chẳng hạn, Quốc hội (khóa XIV) đã giám sát chuyên đề về sử dụng đất đai đô thị, về phòng, chống xâm hại trẻ em; Quốc hội (khóa XV) giám sát chuyên đề về tiết kiệm, chống lãng phí, về việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia… Quá trình giám sát chuyên đề được tiến hành công phu: thành lập đoàn giám sát tối cao do các Phó Chủ tịch Quốc hội làm trưởng đoàn, tiến hành khảo sát thực tế tại nhiều địa phương, cơ sở để thu thập thông tin trực tiếp.
Thứ ba, việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các kết luận sau giám sát được chú trọng hơn trước. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo sát sao việc yêu cầu các đối tượng chịu giám sát báo cáo kết quả thực hiện kiến nghị. Quốc hội cũng tiến hành chất vấn lại việc thực hiện lời hứa của các bộ trưởng, trưởng ngành tại các kỳ họp sau. Nhờ đó, nhiều vấn đề tồn đọng được giải quyết hoặc có chuyển biến tích cực sau khi Quốc hội lên tiếng giám sát.
Thứ tư, phương thức giám sát được đa dạng hóa, kết hợp nhiều kênh thông tin. Ngoài các hình thức giám sát trực tiếp tại nghị trường (chất vấn, báo cáo công tác, xem xét quyết toán ngân sách, báo cáo giám sát chuyên đề), Quốc hội còn phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội trong hoạt động giám sát. Mặt trận và các tổ chức thành viên đã thực hiện giám sát xã hội đối với nhiều vấn đề thiết yếu (ví dụ giám sát việc hỗ trợ người dân trong đại dịch Covid-19), cung cấp cho Quốc hội các thông tin, kiến nghị quý báu. Kênh tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của các đại biểu Quốc hội cũng được chú trọng; thông tin từ cử tri, người dân gửi đến được tổng hợp và chuyển cơ quan chức năng giải quyết.
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, công tác giám sát tối cao của Quốc hội vẫn đối diện không ít hạn chế và thách thức trong tình hình mới. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND được ban hành năm 2015 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, nhưng sau 9 năm thi hành, nhiều quy định bộc lộ bất cập trước bối cảnh mới. Hoạt động giám sát còn nặng tính “hậu kiểm”, thiếu cơ chế giám sát thường xuyên, liên tục. Phần lớn các cuộc giám sát của Quốc hội được tiến hành sau khi sự việc đã xảy ra hoặc chính sách đã thực hiện một thời gian (ví dụ giám sát chuyên đề thường xem xét kết quả 3-5 năm thực hiện chính sách). Điều này dẫn đến độ trễ trong phát hiện vấn đề, nhiều khi Quốc hội chỉ biết khi vấn đề đã trở nên nghiêm trọng.
Công tác theo dõi sau giám sát và chế tài đối với các kiến nghị giám sát chưa thật sự mạnh. Quốc hội ban hành nghị quyết sau giám sát nhưng việc đôn đốc thực hiện các kiến nghị chủ yếu giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Trên thực tế, vẫn có tình trạng một số kiến nghị giám sát chậm được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ do thiếu chế tài buộc các cơ quan phải tuân thủ. Quy định pháp luật chưa rõ ràng về xử lý trường hợp tổ chức, cá nhân không thực hiện nghiêm kết luận giám sát của Quốc hội. Điều này làm giảm hiệu lực giám sát.
Nguồn thông tin phục vụ giám sát còn chưa đa dạng, phong phú như kỳ vọng. Hiện nay, đại biểu Quốc hội chủ yếu dựa vào các báo cáo do cơ quan chịu sự giám sát cung cấp và thông tin phản ánh từ cử tri, báo chí. Tuy nhiên, việc tiếp cận dữ liệu “sống” của cơ quan hành pháp hầu như chưa có. Chẳng hạn, đại biểu không có quyền khai thác trực tuyến cơ sở dữ liệu về chi tiêu ngân sách, về tiến độ các dự án đầu tư công… mà vẫn phụ thuộc vào báo cáo định kỳ.
Sự tham gia của người dân và xã hội vào hoạt động giám sát còn hạn chế. Dù chủ trương “dân giám sát” đã có, nhưng cơ chế để người dân trực tiếp tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước (ở tầm quốc gia) chưa rõ nét. Người dân phản ánh qua kiến nghị cử tri, qua Mặt trận Tổ quốc, qua mạng xã hội… nhưng chưa có kênh chính thức để tập hợp và xử lý hệ thống các ý kiến đó.
2. Kiến nghị một số giải pháp
Một là, quán triệt và thực hiện hiệu quả các chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Trung ương 6 (khóa XIII) với nhiệm vụ tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội đã nêu. Đặc biệt, cần nghiên cứu, cụ thể hóa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đây là những định hướng chiến lược, tạo nền tảng chính trị vững chắc để thúc đẩy đổi mới toàn diện Quốc hội. Bên cạnh đó, các bài phát biểu chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước như phát biểu của Tổng Bí thư tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội (khóa XV) về đổi mới công tác lập pháp, đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội cần được quán triệt sâu sắc trong các cấp ủy Đảng đoàn Quốc hội và từng đại biểu. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch hành động cụ thể để hiện thực hóa các chủ trương vào hoạt động thực tiễn của Quốc hội.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy Quốc hội theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Cần khẩn trương tổng kết 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW để đề xuất mô hình tổ chức bộ máy của Quốc hội phù hợp với tình hình mới. Trọng tâm là rà soát chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội để phân định rành mạch, tránh chồng chéo, bỏ sót. Nghiên cứu khả năng sáp nhập hoặc giải thể những cơ quan hoạt động kém hiệu quả; đồng thời, có thể tăng thêm ủy ban mới nếu lĩnh vực đó đòi hỏi (ví dụ: lập Ủy ban về Dân nguyện và Giám sát chuyên ngành hoặc Ủy ban về An sinh xã hội…).
Tiếp tục kiện toàn tổ chức của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, có thể xem xét tăng số phiên họp Ủy ban Thường vụ trong năm để giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp. Hoàn thiện cơ cấu bên trong của Văn phòng Quốc hội theo hướng tinh gọn tối đa, tránh tầng nấc trung gian. Mục tiêu cuối cùng là có một bộ máy tổ chức của Quốc hội thực sự “tinh, gọn, mạnh”, hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả từ Trung ương đến địa phương.
Ba là, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách. Đây là yếu tố then chốt để một Quốc hội hoạt động chuyên nghiệp. Ngay trong khâu bầu cử nhiệm kỳ tới (Quốc hội khóa XVI năm 2026), cần luật hóa tiêu chí để bảo đảm ít nhất 50% tổng số đại biểu là chuyên trách. Muốn vậy, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2025 nên bổ sung quy định về tỷ lệ tối thiểu đại biểu Quốc hội chuyên trách trong danh sách ứng cử, kèm tiêu chuẩn ứng cử viên chuyên trách (về kinh nghiệm công tác, trình độ chuyên môn phù hợp với công tác lập pháp, giám sát).
Tiếp tục giảm số lượng đại biểu kiêm nhiệm là lãnh đạo các cơ quan hành pháp, tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022. Song song, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng cho đại biểu: tổ chức các chương trình tập huấn chuyên sâu cho đại biểu mới trúng cử; định kỳ bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng lập pháp, giám sát cho tất cả đại biểu. Đối với đại biểu chuyên trách, tạo điều kiện để họ toàn tâm toàn ý cho công tác Quốc hội, xây dựng cơ chế khuyến khích nghiên cứu sâu, đề xuất sáng kiến lập pháp và giám sát. Đồng thời, đổi mới công tác tiếp xúc cử tri để đại biểu gắn bó mật thiết hơn với nhân dân, nắm bắt kịp thời hơi thở cuộc sống, từ đó phản ánh trung thực vào hoạt động nghị trường.
Bốn là, đổi mới tư duy và phương thức giám sát tối cao của Quốc hội; theo đó, cần chuyển mạnh từ tư duy giám sát “bắt lỗi” sang tư duy giám sát kiến tạo phát triển. Mục đích giám sát không chỉ để phát hiện vi phạm mà quan trọng hơn là phòng ngừa rủi ro, tháo gỡ điểm nghẽn, thúc đẩy hiệu quả quản trị quốc gia. Theo đó, cần thiết lập cơ chế giám sát liên tục, theo cả chu trình chính sách chứ không bó hẹp ở hậu kiểm. Quốc hội có thể xem xét các báo cáo giữa kỳ về thực hiện luật, nghị quyết quan trọng thay vì chờ cuối kỳ. Tăng cường giám sát việc ban hành văn bản hướng dẫn Luật, bảo đảm kịp thời, đúng tinh thần luật, tránh khoảng trống pháp lý.
Trong hoạt động giám sát chuyên đề, nên gia tăng hậu kiểm, tức là sau khi có nghị quyết giám sát, cần có lộ trình tái giám sát việc thực hiện nghị quyết đó. Ví dụ, sau 1 năm Quốc hội sẽ nghe Chính phủ báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết giám sát chuyên đề, nếu chưa đạt yêu cầu thì tiếp tục chất vấn, thậm chí ra nghị quyết phê bình. Bên cạnh đó, tăng cường giám sát đối với việc thực thi pháp luật và trách nhiệm người đứng đầu các ngành, các cấp. Xác định rõ bộ trưởng, trưởng ngành phải chịu trách nhiệm chính về lĩnh vực mình quản lý; nếu để xảy ra sai phạm nghiêm trọng hoặc thực hiện không nghiêm kết luận giám sát của Quốc hội thì có chế tài tương xứng (kiến nghị miễn nhiệm, cách chức…). Phải kiên quyết chống tư tưởng “trên nóng dưới lạnh”, do đó, hoạt động giám sát phải tạo được sức nóng đồng đều từ Trung ương đến địa phương.
Năm là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động giám sát. Cần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kết quả giám sát và việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội. Cơ sở dữ liệu này sẽ tổng hợp tất cả kiến nghị giám sát qua các năm, cập nhật thường xuyên tình hình thực hiện để đại biểu theo dõi. Tiến tới, phát triển một hệ thống giám sát điện tử thời gian thực: kết nối thông tin, dữ liệu từ Chính phủ (ví dụ: tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, chi tiêu ngân sách, thực hiện các chỉ tiêu kinh tế – xã hội…) đến trực tiếp với đại biểu Quốc hội. Điều này giúp đại biểu nhận diện sớm điểm nghẽn trong thực thi chính sách, thay vì đợi đến kỳ họp mới biết.
Học tập kinh nghiệm quốc tế (như của Estonia, Hàn Quốc…), có thể tích hợp dữ liệu mở của các bộ, ngành để đại biểu và người dân cùng giám sát, nhờ đó nâng cao tính khách quan và độ tin cậy của kết luận giám sát. Cùng với đó, xây dựng và vận hành Cổng thông tin tiếp nhận phản ánh, kiến nghị giám sát của người dân (có thể tích hợp trong Cổng thông tin điện tử Quốc hội). Cổng này như một kênh “Bình dân học vụ số” trong giám sát, nơi người dân có thể đánh giá dịch vụ công, gửi ý kiến về các vấn đề nổi cộm. Trí tuệ nhân tạo (AI) có thể được ứng dụng để phân tích hàng triệu ý kiến, giúp Quốc hội thấy được xu hướng và những vấn đề “nóng” nhất mà xã hội đang quan tâm. Đây sẽ là căn cứ quan trọng để Quốc hội lựa chọn nội dung giám sát sát thực tiễn, hợp lòng dân.
Sáu là, hoàn thiện cơ chế, quy trình giám sát khoa học, chặt chẽ và tăng tính răn đe. Cần rà soát, sửa đổi Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND theo hướng: bổ sung các hình thức giám sát mới, quy định rõ quyền hạn của đoàn giám sát, quy trình giám sát linh hoạt hơn (có thể giám sát đột xuất khi cần thiết). Đặc biệt, bổ sung chế tài xử lý đối với tổ chức, cá nhân không thực hiện nghiêm yêu cầu sau giám sát của Quốc hội. Ví dụ, nếu quá thời hạn mà bộ trưởng chưa thực hiện đầy đủ nghị quyết giám sát, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thể tổ chức chất vấn giữa hai kỳ họp hoặc kiến nghị Thủ tướng xử lý trách nhiệm.
Cần thiết lập cơ chế đánh giá, xếp hạng các bộ, ngành dựa trên kết quả thực hiện kiến nghị giám sát, tương tự như xếp hạng PAPI đối với chính quyền địa phương. Việc định kỳ “chấm điểm” công khai mức độ hoàn thành kết luận giám sát sẽ tạo áp lực cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy các đơn vị nỗ lực cải thiện, qua đó nâng hiệu quả nền hành chính công. Đây là một sáng kiến có thể thí điểm trước ở quy mô nhỏ (như nhóm bộ ngành kinh tế hoặc giữa các địa phương được giám sát) trước khi nhân rộng.
Bảy là, phát huy vai trò của các chủ thể ngoài Quốc hội trong hoạt động giám sát. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội cần được tạo điều kiện tham gia sâu hơn vào quy trình giám sát tối cao. Có thể thiết lập cơ chế để Mặt trận báo cáo Quốc hội tại kỳ họp về kết quả giám sát, phản biện xã hội do Mặt trận tiến hành, qua đó cung cấp thêm thông tin cho Quốc hội. Các đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương cần phối hợp chặt chẽ với HĐND và Ủy ban Mặt trận địa phương trong giám sát việc thực thi chính sách trên địa bàn, kịp thời phản ánh lên Quốc hội.
Giám sát của Nhân dân, báo chí phải được coi trọng, hoàn thiện khung pháp lý bảo vệ người dân, nhà báo khi phản ánh tiêu cực, đồng thời có cơ chế tiếp thu hữu hiệu các thông tin báo chí điều tra, phản ánh của người dân (ví dụ: Ủy ban Tư pháp hoặc Ủy ban Xã hội lập tổ xử lý thông tin báo chí, dư luận về những vấn đề thuộc lĩnh vực mình phụ trách). Kết hợp giám sát xã hội với giám sát của Quốc hội sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp, nhiều chiều giúp phát hiện sớm vấn đề tiềm ẩn trong vận hành chính sách (hệ thống cảnh báo sớm) cũng như giám sát việc thực hiện chính sách sát sao hơn.
Tám là, tiếp tục nâng cao năng lực, bản lĩnh của đại biểu và các cơ quan của Quốc hội trong hoạt động giám sát. Mỗi đại biểu Quốc hội cần ý thức rõ vai trò người đại diện của dân, từ đó dũng cảm, thẳng thắn trong chất vấn, tranh luận, không ngại động chạm những vấn đề khó. Quốc hội (khóa XV) đã có những đại biểu tiêu biểu như vậy và cần nhân rộng tinh thần đó. Các cơ quan của Quốc hội (nhất là Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban chuyên môn) phải chủ động hơn trong đề xuất chương trình giám sát, nâng cao chất lượng thẩm tra các báo cáo giám sát của đoàn đại biểu Quốc hội địa phương, báo cáo của Chính phủ.
Mỗi đoàn giám sát tối cao khi thành lập nên mời thêm chuyên gia độc lập, nhà khoa học tham gia để tăng tính phản biện khoa học. Bản thân đại biểu Quốc hội cũng cần tự học, tự cập nhật kiến thức về lĩnh vực giám sát. Quốc hội có thể nghiên cứu thành lập Viện nghiên cứu về lập pháp và giám sát (trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội) với chức năng hỗ trợ thông tin, tư vấn chính sách cho đại biểu, tương tự mô hình Congressional Research Service của Hoa Kỳ. Qua đó, giúp đại biểu có cơ sở khoa học và thực tiễn vững chắc khi tiến hành giám sát, chất vấn.
3. Kết luận
Các giải pháp trên đây phải được thực hiện một cách đồng bộ, có lộ trình phù hợp và cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Đổi mới Quốc hội không chỉ là nhiệm vụ của riêng Quốc hội mà đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ với Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát và sự ủng hộ của toàn xã hội. Trong quá trình triển khai, không tránh khỏi những khó khăn, thách thức, nhưng với quyết tâm chính trị cao và sự giám sát của nhân dân, nhất định chúng ta sẽ xây dựng được một Quốc hội thực sự “đổi mới vì dân, kiến tạo vì nước”.
Chú thích:
1. Tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách đạt con số cao nhất từ trước đến nay. https://vov.vn/chinh-tri/quoc-hoi/ty-le-dai-bieu-quoc-hoi-chuyen-trach-dat-con-so-cao-nhat-tu-truoc-den-nay-875301.vov.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Quốc hội (2014, 2020, 2025). Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2025.
4. Quốc hội (2015). Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
5. Quốc hội (2015, 2025). Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025).
5. Quốc hội (2023). Báo cáo kết quả giám sát chuyên đề của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội các năm 2020 – 2023.
6. Quốc hội (2023). Biên bản các phiên chất vấn tại kỳ họp và Nghị quyết số 96/2023/QH15 về lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội (khóa XV).



