Thực trạng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay – Một số vấn đề đặt ra và gợi ý chính sách

ThS. Nguyễn Mạnh Hùng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanhuoc.vn) – Ở cấp tỉnh, công chức kinh tế là lực lượng then chốt trong việc tham mưu chính sách, điều hành và giám sát phát triển kinh tế – xã hội. Chất lượng đội ngũ này tác động trực tiếp đến năng lực quản trị địa phương, môi trường đầu tư kinh doanh và các chỉ số năng lực cạnh tranh. Bắc Ninh hiện được định hướng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030, với mục tiêu phát triển công nghiệp công nghệ cao, đô thị thông minh và dịch vụ chất lượng cao. Việc sắp xếp, hợp nhất đơn vị hành chính tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang, thành tỉnh Bắc Ninh (mới) từ ngày 01/7/2025 đã mở rộng đáng kể quy mô dân số, không gian phát triển; đồng thời, làm gia tăng mức độ phức tạp trong quản lý điều hành, rất cần có các giải pháp phù hợp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Bài viết phân tích, đánh giá thực trạng, nêu hạn chế bất cập về đề xuất một số giải pháp.

Từ khóa: Công chức quản lý nhà nước, kinh tế, vị trí việc làm, khung năng lực, giám sát, đánh giá.

1. Đặt vấn đề

Trong giai đoạn 2021 – 2024, Bắc Ninh đã triển khai kế hoạch đào tạo công chức quản lý lĩnh vực kinh tế hằng năm với nhiều hình thức (trực tiếp, trực tuyến, kết hợp), nội dung gắn với quản lý tài chính – đầu tư công, đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), chuyển đổi số và xúc tiến đầu tư quốc tế. Đội ngũ giảng viên gồm cả học giả và chuyên gia thực tiễn, góp phần cải thiện Chỉ số cải cách hành chính (năm 2022 xếp thứ 10/63, tăng 4 bậc) và nâng cao Chỉ số PCI. Tuy vậy, công tác đào tạo còn hạn chế, xác định nhu cầu hình thức, thiếu dự báo kỹ năng mới; kế hoạch ngắn hạn, dàn trải; nội dung một số khóa học chưa sát thực tiễn; tổ chức bất cập về lựa chọn đối tượng và kỷ luật học tập; đánh giá chủ yếu ngắn hạn, thiếu cơ chế theo dõi và gắn kết với quy hoạch, bổ nhiệm. Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới (giai đoạn thực hiện chính quyền địa phương hai cấp); cần đánh giá đúng thực trạng, phân tích những vấn đề đặt ra làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp, chính sách nguồn nhân lực công chức quản lý nhà nước về kinh tế của tỉnh Bắc Ninh sau sắp xếp lại.

2. Thực trạng nguồn nhân lực công chức quản lý nhà nước về kinh tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trước khi sắp xếp

2.1. Tổng số công chức quản lý nhà nước về kinh tế trên địa bàn tỉnh

Trong giai đoạn 2021 – 2024, công tác quản lý và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức ở Bắc Ninh diễn ra trong bối cảnh cả nước đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, cùng với các văn bản hướng dẫn của Chính phủ và Bộ Nội vụ về tinh giản biên chế. Đối với Bắc Ninh – một tỉnh công nghiệp phát triển nhanh, đang hướng tới mục tiêu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030 – yêu cầu vừa tinh giản bộ máy, vừa nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, trở thành nhiệm vụ cấp thiết.

Điều này cho thấy, Bắc Ninh vừa bảo đảm thực hiện chủ trương tinh giản, vừa duy trì sự cân đối hợp lý về nhân lực cho lĩnh vực kinh tế – trụ cột phát triển của địa phương. Tuy nhiên, sự giảm nhẹ về số lượng cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao chất lượng, năng lực và hiệu quả thực thi công vụ của đội ngũ công chức kinh tế, để đáp ứng khối lượng và tính chất công việc ngày càng phức tạp trong bối cảnh tỉnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế.

2.2. Năng lực, trình độ của công chức QLNN về kinh tế

Thứ nhất, về trình độ chuyên môn.

Đội ngũ công chức kinh tế của tỉnh có trình độ chuyên môn khá cao, với 100% đạt chuẩn từ đại học trở lên. Đến năm 2024, trong tổng số 246 công chức kinh tế cấp tỉnh, có 121 thạc sĩ (49,2%), 124 cử nhân đại học (50,4%), và 1 tiến sĩ (0,4%). So với năm 2021, số thạc sĩ tăng 9 người, phản ánh xu hướng nâng cao trình độ sau đại học nhờ chính sách đào tạo, bồi dưỡng của tỉnh. Nhiều công chức đã được tạo điều kiện đi học cao học, chuyên viên cao cấp và các chương trình bồi dưỡng chuyên sâu; trên 2/3 đã từng tham gia đào tạo dài hạn. Điều này giúp đội ngũ công chức kinh tế Bắc Ninh thuộc nhóm có trình độ chuyên môn cao so với mặt bằng chung cả nước.

Thứ hai, về trình độ chính trị.

Công chức quản lý kinh tế ở Bắc Ninh bảo đảm tốt về tiêu chuẩn chính trị. Năm 2024, trong số 246 công chức, có 98 người (39,8%) có trình độ cao cấp lý luận chính trị, 145 người (58,9%) trung cấp, và 3 người có bằng cử nhân chính trị. 100% cán bộ lãnh đạo chủ chốt đạt cao cấp lý luận chính trị theo quy định, nhờ đó đội ngũ công chức có sự thống nhất về nhận thức, nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng và đáp ứng tiêu chuẩn cán bộ theo quy định. Việc thường xuyên tổ chức các khóa cao cấp, trung cấp lý luận đã giúp chuẩn hóa hệ thống chính trị, góp phần nâng cao năng lực QLNN.

Thứ ba, thực trạng bố trí vị trí công tác của công chức QLNN về kinh tế

Đội ngũ công chức kinh tế tập trung nhiều nhất ở vị trí chuyên môn (54,1% năm 2024) và lãnh đạo cấp phòng (41,5%). Ban giám đốc sở duy trì ổn định 11 người (4,5%). Tỷ lệ lãnh đạo cấp phòng khá cao, phản ánh đặc thù Bắc Ninh là tỉnh công nghiệp trọng điểm, khối lượng công việc lớn, đòi hỏi nhiều phòng ban chức năng. Tuy nhiên, cơ cấu này cũng đặt ra yêu cầu tinh gọn tầng nấc trung gian để tránh tình trạng “quá tải lãnh đạo, thiếu chuyên môn”.

Thứ tư, hiệu quả thực thi nhiệm vụ được giao

Thực trạng đội ngũ công chức QLNN về kinh tế tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2021-2024 cho thấy, mặc dù số lượng công chức có xu hướng giảm theo chủ trương tinh giản biên chế, nhưng tỷ trọng công chức trong lĩnh vực kinh tế vẫn duy trì ổn định ở mức khoảng 30% tổng số công chức hành chính toàn tỉnh. Về cơ cấu, đội ngũ này bao gồm cả công chức lãnh đạo, quản lý và công chức chuyên môn thuộc các sở, ban, ngành kinh tế. Về chất lượng, công chức quản lý kinh tế đã cơ bản đạt chuẩn về chuyên môn, lý luận chính trị và tin học. Tỷ lệ công chức có trình độ sau đại học tăng đều qua các năm; 100% có trình độ đại học trở lên và hầu hết lãnh đạo chủ chốt đã hoàn thành chương trình cao cấp lý luận chính trị. Năng lực tin học được chuẩn hóa, phục vụ công tác cải cách hành chính và ứng dụng chuyển đổi số trong QLNN.

Từ những kết quả trên có thể khẳng định, đội ngũ công chức quản lý kinh tế của tỉnh Bắc Ninh đã và đang được chuẩn hóa, đồng thời, đóng vai trò nòng cốt trong hệ thống công vụ địa phương. Đây là cơ sở thực tiễn quan trọng để tiếp tục xem xét công tác đào tạo và bồi dưỡng trong các khâu tiếp theo, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh trong giai đoạn tới.

3. Phân tích kết quả thực hiện nhiệm vụ của công chức quản lý nhà nước về kinh tế trên địa bàn trước khi sắp xếp

Một là, khoảng cách giữa đội ngũ công chức với mục tiêu phát triển của địa phương trong giai đoạn mới.

(1) Về cơ cấu nhân khẩu và đặc điểm tổ chức của đội ngũ công chức QLNN về kinh tế tại Bắc Ninh

Kết quả khảo sát 387 công chức cho thấy, đội ngũ công chức QLNN về kinh tế tại Bắc Ninh có những đặc điểm nổi bật về độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, chức vụ và kinh nghiệm tham gia đào tạo.

Độ tuổi: nhóm 41-50 chiếm tỷ lệ cao nhất (49,1%), tiếp đến là nhóm 31 – 40 (31,5%), trong khi nhóm dưới 30 tuổi chỉ chiếm 1,8%. Điều này phản ánh xu hướng già hóa của đội ngũ; đồng thời, cho thấy thách thức trong việc kế cận và trẻ hóa nguồn nhân lực.

Giới tính: nam giới chiếm 62,0%, cao hơn đáng kể so với nữ (38,0%), cho thấy cơ cấu giới chưa cân bằng và có thể ảnh hưởng đến tính đa dạng trong hoạch định, triển khai chính sách kinh tế.

Trình độ học vấn: mặt bằng học vấn được đánh giá là cao với 71,6% công chức có trình độ sau đại học, 27,6% có trình độ đại học và chỉ 0,8% ở bậc trung cấp/cao đẳng. Đây là nền tảng thuận lợi cho việc chuẩn hóa, chuyên môn hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ.

Chức vụ: tỷ lệ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý chiếm 42,9%, trong khi công chức chuyên môn chiếm 57,1%. Điều này phản ánh cơ cấu lãnh đạo khá lớn, phù hợp với bối cảnh bộ máy hành chính cấp tỉnh nhưng cũng đặt ra yêu cầu nâng cao năng lực quản lý, điều hành.

Tham gia đào tạo: 70,0% công chức đã từng tham gia ít nhất một chương trình đào tạo, trong khi 30,0% chưa từng tham gia. Con số này cho thấy công tác đào tạo đã được chú trọng, song vẫn còn khoảng trống nhất định trong việc phổ cập và đảm bảo cơ hội tiếp cận đồng đều cho toàn bộ đội ngũ.

(2) Về các loại hình đào tạo đã tham gia và địa điểm tổ chức chương trình đào tạo

Đa số công chức được tham gia đào tạo về công nghệ thông tin (92,6%) và nghiệp vụ tài chính – quản lý (91,9%), phản ánh trọng tâm vào việc trang bị năng lực nghiệp vụ cơ bản. Nhóm đào tạo tin học văn phòng (77,5%), trung cấp lý luận chính trị (73,1%) và thạc sĩ/tiến sĩ (71,6%) cũng có tỷ lệ tham gia cao, phù hợp với mục tiêu chuẩn hóa chuyên môn và chính trị. Ngược lại, các khóa cao cấp lý luận chính trị (58,7%), ngoại ngữ (26,6%) và chuyên môn khác (9,6%) có tỷ lệ thấp, cho thấy nhiều lĩnh vực quan trọng vẫn chưa được chú trọng đúng mức.

Những số liệu trên phản ánh thực trạng phân bổ cơ hội đào tạo còn mất cân đối, trong khi các kỹ năng nghiệp vụ và chính trị được củng cố khá tốt, thì các năng lực mới gắn với hội nhập quốc tế (ngoại ngữ, kỹ năng quốc tế, trải nghiệm đào tạo ngoài nước) vẫn hạn chế. Ngoại ngữ là “điểm nghẽn” lớn nhất, chỉ 26,6% công chức từng tham gia đào tạo ngoại ngữ và phần lớn các chương trình đều tổ chức trong nước, chưa gắn kết với chiến lược phát triển nhân sự gắn với hội nhập. Trong bối cảnh Bắc Ninh là trung tâm FDI hàng đầu cả nước, thực trạng này tạo ra khoảng cách với mục tiêu phát triển toàn diện, hiện đại và hội nhập quốc tế.

(3) Mức độ đáp ứng của công tác đào tạo so với yêu cầu phát triển đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế.

Kết quả khảo sát cho thấy, công tác đào tạo công chức QLNN về kinh tế tại Bắc Ninh có những tác động nhất định đến sự phát triển nghề nghiệp và năng lực thực thi công vụ của đội ngũ, song mức độ đáp ứng khác nhau tùy theo loại hình đào tạo.

Với các chương trình đào tạo dài hạn,như thạc sĩ, tiến sĩ và cao cấp lý luận chính trị, tác động sau đào tạo được ghi nhận khá rõ rệt. Sau khi hoàn thành, nhiều công chức được cơ quan giao thêm trách nhiệm, bố trí công việc phù hợp, đưa vào diện quy hoạch, bổ nhiệm hoặc luân chuyển công tác. Tỷ lệ thay đổi dao động từ 60% đến gần 90%, đặc biệt với chương trình cao cấp lý luận chính trị, có tới 89,3% được đưa vào diện quy hoạch và 61,0% được bổ nhiệm lãnh đạo, quản lý.

Ở các khóa đào tạo ngắn hạn và bồi dưỡng kỹ năng, như: ngoại ngữ, tin học, nghiệp vụ tài chính – quản lý, nghiệp vụ công nghệ thông tin, tác động sau đào tạo còn hạn chế. Tỷ lệ trả lời “không có thay đổi” thường ở mức rất cao, từ 65% đến trên 79%. Chỉ có một số ít công chức được giao thêm trách nhiệm hoặc sắp xếp công việc phù hợp hơn, hầu như không có trường hợp được bổ nhiệm hay đưa vào quy hoạch. Điều này cho thấy các chương trình này chủ yếu dừng ở mức “bổ trợ”, chưa trở thành tiêu chí quan trọng để phát triển đội ngũ.

Về tiêu chí cử đi đào tạo, kết quả khảo sát cho thấy, cơ quan lựa chọn chủ yếu dựa trên kế hoạch đào tạo, mục tiêu phát triển địa phương và nhu cầu công việc (tỷ lệ trên 80 – 95%). Các tiêu chí về trình độ, bằng cấp chỉ đóng vai trò thứ yếu (khoảng 30 – 45%), còn tiêu chí thâm niên hầu như ít được coi trọng (dưới 20%). Đánh giá mức độ phù hợp của các tiêu chí này trên thang 5 điểm cho thấy, “nhu cầu thực tế công việc” (4,7 điểm) và “kế hoạch đào tạo của cơ quan” (4,6 điểm) là hợp lý nhất, trong khi “thâm niên công tác” có mức phù hợp thấp (1,7 điểm).

Việc thông báo cử đi đào tạo trong cơ quan, nhìn chung được thực hiện công khai với tỷ lệ rất cao (92,8%). Đồng thời, đa số công chức (87,8%) cho rằng việc cử đi đào tạo hoàn toàn đáp ứng đúng nhu cầu/nguyện vọng của công chức, chỉ 12,1% cho rằng, mới đáp ứng một phần.

4. Một số gợi ý giải pháp

Trong bối cảnh Bắc Ninh sau sáp nhập, quy mô dân số, kinh tế và khối lượng công việc ngày càng mở rộng, yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ công chức quản lý kinh tế trở thành nhiệm vụ cấp thiết. Tuy việc ban hành tiêu chuẩn chức danh và vị trí việc làm là thẩm quyền của Bộ Nội vụ theo Luật Cán bộ, công chức năm 2025 và Nghị định số 171/2025/NĐ-CP nhưng địa phương vẫn có vai trò quan trọng trong rà soát, cụ thể hóa và đề xuất để bảo đảm phù hợp với bối cảnh đặc thù.

Ủy ban nhân dân tỉnh giữ vai trò chỉ đạo, Sở Nội vụ chủ trì rà soát và xây dựng bản mô tả công việc, khung năng lực cho từng vị trí, trên cơ sở tiêu chuẩn chung đã ban hành ở cấp trung ương. Quá trình này cần có sự phối hợp với Bộ Nội vụ để bảo đảm tính đồng bộ, đồng thời, huy động sự tham gia của các sở, ngành kinh tế trọng yếu (Tài chính, Công Thương, Nông nghiệp và Môi trường, Khoa học – Công nghệ…) trong việc đề xuất yêu cầu chuyên môn đặc thù. Các cơ sở đào tạo, hiệp hội doanh nghiệp và chuyên gia thực tiễn được mời tham gia phản biện, nhằm bảo đảm khung năng lực vừa có tính lý luận, vừa sát với thực tiễn phát triển địa phương.

Mỗi vị trí việc làm cần gắn với bản mô tả công việc rõ ràng và khung năng lực cụ thể trên ba phương diện: (1) phẩm chất và đạo đức công vụ (liêm chính, kỷ luật, văn hóa công vụ, trách nhiệm giải trình, thái độ phục vụ nhân dân); (2) năng lực chuyên môn và thực thi (kiến thức chuyên sâu về quản lý kinh tế, kỹ năng số, khả năng làm việc độc lập, sáng kiến trong thực thi nhiệm vụ); (3) năng lực đổi mới và tiên phong (khả năng tạo giải pháp đột phá, dám nghĩ – dám làm, tiên phong trong cải cách).

Đặc biệt, trong bối cảnh Bắc Ninh định hướng trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ cao, tỉnh cần bổ sung đề xuất các tiêu chí mới phù hợp với đặc thù, như năng lực số (quản lý dữ liệu lớn, vận hành nền tảng số công, an toàn thông tin), năng lực hội nhập quốc tế (FTA thế hệ mới, ESG, giám sát FDI, bảo hộ sở hữu trí tuệ), năng lực quản trị liên vùng – khu công nghiệp – đô thị (PPP, logistics, quản lý môi trường công nghiệp, điều phối đa tác nhân), và năng lực thích ứng tổ chức (quản lý thay đổi, kỹ năng đa nhiệm, hòa nhập văn hóa công vụ).

Như vậy, thay vì “ban hành chuẩn mới”, Bắc Ninh thực hiện chức năng nội địa hóa tiêu chuẩn: cụ thể hóa tiêu chuẩn quốc gia thành bản mô tả công việc, khung năng lực tại địa phương, đồng thời, đề xuất điều chỉnh, bổ sung các yêu cầu chuyên biệt để Bộ Nội vụ xem xét, cập nhật. Đây là bước đi nền tảng, bảo đảm công tác tuyển chọn, sử dụng, đào tạo và đánh giá công chức vừa bám sát chuẩn quốc gia, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển đặc thù của tỉnh trong giai đoạn mới.

5. Kết luận

Đặc điểm xã hội của Bắc Ninh giai đoạn 2021 – 2024 thể hiện sự năng động và chuyển biến nhanh dưới tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa: dân số trẻ, đô thị hóa cao, chất lượng giáo dục và y tế thuộc nhóm dẫn đầu cả nước, an sinh xã hội được quan tâm. Tuy nhiên, sự gia tăng nhanh về dân số cơ học cũng đặt ra nhiều thách thức cho QLNN, đặc biệt là trong việc xây dựng chính sách an sinh xã hội, quản lý đô thị, phát triển nguồn nhân lực và đào tạo đội ngũ công chức quản lý kinh tế để đáp ứng yêu cầu quản lý ngày càng phức tạp.

Trong bối cảnh đó, số lượng công chức hành chính toàn tỉnh có xu hướng giảm dần, từ 829 người năm 2021 xuống còn 806 người năm 2024, giảm 23 người (tương ứng 2,8%). Đây là bước đi phù hợp với chủ trương tinh giản, thể hiện quyết tâm của địa phương trong việc kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính. Đối với đội ngũ công chức QLNN về kinh tế – lực lượng nòng cốt tham mưu và triển khai các chính sách phát triển kinh tế – xã hội, số lượng cũng giảm từ 255 người năm 2021 xuống 246 người năm 2024, tức giảm 9 người (3,5%). Mặc dù giảm nhanh hơn so với tốc độ giảm chung, nhưng tỷ trọng của lực lượng này trong tổng số công chức toàn tỉnh vẫn duy trì ổn định quanh mức 30%.

Thực trạng đội ngũ công chức QLNN về kinh tế tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2021 – 2024 cho thấy, mặc dù số lượng công chức có xu hướng giảm theo chủ trương tinh giản biên chế, nhưng tỷ trọng công chức trong lĩnh vực kinh tế vẫn duy trì ổn định ở mức khoảng 30% tổng số công chức hành chính toàn tỉnh. Về cơ cấu, đội ngũ này bao gồm cả công chức lãnh đạo, quản lý và công chức chuyên môn thuộc các sở, ban, ngành kinh tế. Về chất lượng, công chức quản lý kinh tế đã cơ bản đạt chuẩn về chuyên môn, lý luận chính trị và tin học. Tỷ lệ công chức có trình độ sau đại học tăng đều qua các năm; 100% có trình độ đại học trở lên và hầu hết lãnh đạo chủ chốt đã hoàn thành chương trình cao cấp lý luận chính trị. Năng lực tin học được chuẩn hóa, phục vụ công tác cải cách hành chính và ứng dụng chuyển đổi số trong QLNN. Để nâng cao năng lực đội ngũ công chức QLNN về kinh tế, đáp ứng yêu cầu thời kỳ sắp xếp lại chính quyền địa phương; tỉnh Bắc Ninh nói chung và ngành Nội vụ nói riêng cần rà soát, mô tả công việc, khung năng lực từng vị trí, việc làm dựa trên tiêu chuẩn chung mà Trung ương đã ban hành. Trong đó, mỗi vị trí việc làm cần bảo đảm phẩm chất đạo đức công vụ; năng lực chuyên môn và thực thi; năng lực đổi mới và tiên phong trong tình hình hiện nay. Đặc biệt, để Bắc Ninh trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ cao, cần bổ sung thêm các tiêu chí (ngoài tiêu chí chung Trung ương đã ban hành),  bảo đảm khả năng hội nhập quốc tế và quản lý liên vùng.

Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.
4. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
5. Nguyễn Mạnh Hùng (2025). Đề tài nghiên cứu sinh: “Đào tạo đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế tỉnh Bắc Ninh”.
6. Biến đổi dân số và tăng trưởng kinh tế ở Bắc Ninh sau 25 năm tái lập tỉnh. https://rrsd.org.vn/khoa-hoc-ve-vung/bie-n-do-i-dan-so-va-tang-truo-ng-kinh-te-o-ba-c-ninh-sau-25-nam-tai-lap-tinh.html.