TS. Phạm Văn Phong
Tạp chí Cộng sản
(Quanlynhanuoc.vn) – Quốc hội vừa là chủ thể chuyển đổi, vừa có vai trò dẫn dắt chuyển đổi thông qua chức năng lập pháp và giám sát của mình. Sự thành công của Quốc hội số sẽ góp phần thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia và ngược lại, tiến trình quốc gia số thuận lợi sẽ hỗ trợ Quốc hội hoàn thành mục tiêu của mình. Quốc hội hiện đã có đầy đủ cơ sở chính trị – pháp lý vững chắc cho hành trình chuyển đổi số: sự quyết tâm từ cấp lãnh đạo cao nhất, chiến lược rõ ràng và khung pháp lý cụ thể.
Từ khóa: Quốc hội số, kỷ nguyên số, chức năng lập pháp, giám sát.
1. Cơ sở chính trị – pháp lý cho chuyển đổi số Quốc hội
Việc chuyển đổi số của Quốc hội được xây dựng trên nền tảng các chủ trương, chính sách lớn của Đảng về phát triển khoa học – công nghệ và cách mạng công nghiệp 4.0 cùng với khung pháp lý, chiến lược quốc gia do Chính phủ ban hành. Về cơ sở chính trị, Bộ Chính trị đã sớm định hướng tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019, nhấn mạnh yêu cầu đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức về chuyển đổi số trong toàn hệ thống chính trị. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: chuyển đổi số là một trọng tâm để đạt mục tiêu phát triển đất nước thịnh vượng, hùng cường vào năm 2045. Đặc biệt, cuối năm 2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia – văn kiện chiến lược xác định chuyển đổi số là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, là động lực quan trọng cho sự phát triển. Nghị quyết số 57-NQ/TW yêu cầu hoàn thiện thể chế, tháo gỡ các rào cản để chuyển đổi số thật sự trở thành lợi thế cạnh tranh quốc gia. Đây là định hướng chính trị vững chắc, tạo tiền đề cho Quốc hội hành động.
Song song với chỉ đạo của Đảng, Chính phủ đã ban hành Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030 (Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020) làm kim chỉ nam cho chuyển đổi số trên cả ba trụ cột: chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Trong đó, phát triển chính phủ số bao hàm việc hiện đại hóa các cơ quan công quyền, bao gồm cả Quốc hội nhằm quản trị hiệu quả dựa trên công nghệ số. Chính phủ cũng chọn ngày 10/10 hằng năm là Ngày Chuyển đổi số quốc gia nhằm nâng cao nhận thức, thúc đẩy sự tham gia của toàn xã hội vào tiến trình này.
Về mặt pháp lý, Quốc hội đã và đang tích cực hoàn thiện hành lang pháp lý cho chuyển đổi số, gần đây Quốc hội đã thông qua Luật Giao dịch điện tử sửa đổi, bổ sung năm 2023, tạo cơ sở pháp lý cho giao dịch trên môi trường số, dự kiến xem xét Luật Chuyển đổi số trong thời gian tới, đồng thời, bổ sung các quy định về chữ ký số, văn bản điện tử trong Luật Tổ chức Quốc hội và các văn bản liên quan để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của hoạt động Quốc hội điện tử. Có thể thấy, cơ sở pháp lý cho chuyển đổi số Quốc hội ngày càng đầy đủ và đồng bộ, giúp khắc phục những khoảng trống trước đây.
Đối với Quốc hội Việt Nam, cụ thể hóa các chủ trương trên, Đảng đoàn Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành nhiều quyết sách để lãnh đạo, chỉ đạo triển khai chuyển đổi số trong cơ quan lập pháp. Tháng 10/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 626/NQ-UBTVQH15 thành lập Ban Chỉ đạo về xây dựng Quốc hội điện tử, hướng đến Quốc hội số giai đoạn 2023 – 2026. Ban Chỉ đạo do một Phó Chủ tịch Quốc hội đứng đầu, có thành viên là lãnh đạo các ủy ban của Quốc hội và đại diện nhiều bộ, ngành liên quan, thể hiện quyết tâm liên ngành trong thúc đẩy chuyển đổi số Quốc hội. Đến cuối năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục ban hành Nghị quyết số 1343/NQ-UBTVQH15 ngày 31/12/2024 về xây dựng và phát triển Quốc hội số giai đoạn 2024 – 2026, định hướng đến 2030. Đây là khung định hướng chiến lược, gắn mục tiêu, nhiệm vụ chuyển đổi số của Quốc hội với Chương trình chuyển đổi số quốc gia, bảo đảm tuân thủ các chuẩn mực công nghệ thông tin chung và liên thông với các cơ quan trong hệ thống chính trị. Trên cơ sở đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Đề án Chuyển đổi số Quốc hội giai đoạn 2025 – 2030 vào tháng 5/2025 (Nghị quyết số 1637/UBTVQH15) nhằm triển khai chuyển đổi số một cách “bài bản, toàn diện, khoa học, hiệu quả và minh bạch”.
Các văn bản này đặt ra quan điểm chỉ đạo xuyên suốt: bám sát đường lối của Đảng (đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW), lấy đại biểu Quốc hội, cán bộ công chức và người dân làm trung tâm của chuyển đổi số (với phương châm “dễ hiểu, dễ nhớ, dễ ứng dụng”), đồng thời, bảo đảm sự liên thông, đồng bộ dữ liệu giữa Quốc hội với Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan khác.
2. Hiệu quả bước đầu và những thách thức đặt ra
Quá trình chuyển đổi số Quốc hội hiện nay đã đạt được những kết quả ban đầu đáng ghi nhận, song cũng bộc lộ không ít thách thức cần vượt qua. Về hiệu quả bước đầu, có thể thấy rõ tác động tích cực của các ứng dụng công nghệ tới hoạt động của Quốc hội.
Một là, tăng hiệu suất, giảm giấy tờ. Việc áp dụng hệ thống Quốc hội điện tử đã rút ngắn đáng kể thời gian chuẩn bị và xử lý tài liệu. Đại biểu Quốc hội hiện nay không còn phải mang hàng vali tài liệu mỗi kỳ họp; mọi văn bản, báo cáo đều sẵn có trên iPad giúp đại biểu có thể tra cứu mọi lúc, mọi nơi. Báo cáo thống kê cho thấy, lượng tài liệu giấy in ấn phục vụ kỳ họp đã giảm hàng chục tấn mỗi năm, tiết kiệm ngân sách và bảo vệ môi trường. Quan trọng hơn, đại biểu tiếp cận thông tin nhanh hơn, nắm được các tài liệu cập nhật hoặc chỉnh lý muộn ngay tức thì qua ứng dụng điện tử.
Hai là, nâng cao chất lượng lập pháp và giám sát. Nhờ công cụ tìm kiếm, tóm tắt văn bản bằng AI, đại biểu có thể hiểu nhanh nội dung dự thảo luật, tập trung thảo luận vào các vấn đề then chốt thay vì mất thời gian đọc toàn văn dự thảo dài hàng trăm trang. Việc chia sẻ tài liệu điện tử giữa các đại biểu cũng tạo điều kiện phối hợp tốt hơn – đại biểu dễ dàng gửi cho nhau những thông tin, số liệu tham khảo qua email nội bộ hoặc ứng dụng thay vì gặp nhau để trao đổi bản cứng như trước. Trong hoạt động giám sát, kho dữ liệu số cho phép đại biểu tra cứu thông tin đa chiều về lĩnh vực đang giám sát (ví dụ: số liệu về đất đai, ngân sách, dân nguyện…) để có căn cứ chất vấn thuyết phục hơn.
Theo đánh giá của Quốc hội, tại các kỳ họp gần đây, khối lượng công việc lập pháp, giám sát được hoàn thành tăng lên đáng kể mà vẫn bảo đảm chất lượng, một phần nhờ sự hỗ trợ của chuyển đổi số. Minh chứng rõ nhất là Quốc hội (khóa XV) đã thông qua số lượng luật, nghị quyết kỷ lục so với cùng kỳ các khóa trước, nhiều phiên thảo luận “nóng” nhưng các đại biểu vẫn nắm bắt tốt thông tin và biểu quyết với sự đồng thuận cao.
Ba là, tăng tính minh bạch, công khai, chuyển đổi số cũng giúp minh bạch hóa hoạt động của Quốc hội. Các tài liệu không mật phục vụ kỳ họp (dự thảo luật, báo cáo thẩm tra, báo cáo giám sát…) được đăng tải trên Cổng thông tin Quốc hội để người dân, báo chí theo dõi dễ dàng hơn so với trước đây phải tìm kiếm bản giấy. Việc xử lý kiến nghị cử tri qua hệ thống điện tử cũng cho phép theo dõi công khai tiến độ giải quyết, tránh tình trạng kiến nghị bị “om” mà cử tri không biết.
Mỗi đại biểu Quốc hội giờ đây có thể truy cập hệ thống để xem tình hình giải quyết kiến nghị của cử tri địa phương mình và phản hồi lại nếu kết quả chưa thỏa đáng. Điều này tạo áp lực tích cực buộc các cơ quan chức năng phải trả lời kiến nghị nghiêm túc, kịp thời, nếu không sẽ bị Quốc hội nhắc nhở. Chính nhờ tính công khai đó, tỷ lệ trả lời kiến nghị cử tri đúng hạn đã được cải thiện trong những năm qua (theo báo cáo của Ủy ban Dân nguyện). Hơn nữa, hệ thống họp không giấy và biểu quyết điện tử bảo đảm công khai kết quả biểu quyết: kết quả bấm nút của đại biểu được lưu lại điện tử, thuận tiện cho việc tổng hợp và nếu cần, có thể công bố danh sách đại biểu biểu quyết để cử tri giám sát.
Bốn là, gần dân hơn, phản hồi nhanh hơn với sự hỗ trợ của nền tảng số, khoảng cách giữa cử tri và đại biểu được thu hẹp. Chẳng hạn, cử tri có thể gửi kiến nghị qua mạng thay vì chờ đến buổi tiếp xúc trực tiếp; nhờ đó đại biểu nhận được ý kiến phong phú, đa dạng và thường xuyên hơn, không bị giới hạn bởi số cuộc tiếp xúc. Một số đại biểu Quốc hội trẻ đã lập các kênh tương tác với người dân trên mạng (như: Facebook, Zalo) để tiếp thu ý kiến cử tri ngoài các kênh chính thức, điều này phù hợp xu hướng thời đại và cho phép đại biểu tiếp cận thông tin về mọi mặt của cuộc sống người dân nhanh hơn.
Ở chiều ngược lại, Quốc hội đã cải tiến Cổng thông tin điện tử, cập nhật liên tục diễn biến kỳ họp (hình ảnh, video, biên bản tóm tắt…) giúp người dân theo dõi hoạt động của người mình bầu một cách trực quan, sinh động. Trong kỳ họp, nhiều đại biểu sử dụng máy tính bảng để tương tác ngay tại hội trường, ví dụ tra cứu nhanh phản hồi của cử tri về một dự luật đang thảo luận, từ đó phát biểu sát thực tiễn hơn. Những điều này cho thấy, hình ảnh một Quốc hội gần gũi, năng động và kết nối hơn với Nhân dân nhờ chuyển đổi số.
Bên cạnh các kết quả khả quan trên, quá trình chuyển đổi số của Quốc hội cũng gặp phải không ít thách thức, hạn chế đòi hỏi phải khắc phục trong thời gian tới:
Thứ nhất, hạn chế về nhân lực và nhận thức số. Dù đã có những bước tiến “bình dân học vụ số”, song không phải tất cả đại biểu Quốc hội và cán bộ đều thành thạo công nghệ ngay lập tức. Quốc hội Việt Nam có cơ cấu đại biểu đa dạng, trong đó nhiều đại biểu lớn tuổi hoặc kiêm nhiệm công tác lãnh đạo địa phương, chưa quen sử dụng các ứng dụng hiện đại. Những tháng đầu đưa iPad vào sử dụng (năm 2019), không ít đại biểu vẫn giữ thói quen đọc văn bản giấy, ngại thao tác trên máy tính bảng. Tương tự, một bộ phận công chức Quốc hội e dè trước thay đổi, chưa khai thác hết tính năng phần mềm mới.
Phong trào học tập suốt đời, tự học tập, nâng cao kỹ năng số là trách nhiệm của mỗi cá nhân. Bài toán đào tạo, thay đổi tư duy cho hàng nghìn cán bộ, đại biểu trên toàn quốc không thể giải quyết trong ngày một ngày hai; đòi hỏi nỗ lực thường xuyên, liên tục. Ngoài ra, nguồn nhân lực kỹ thuật chuyên trách cũng rất mỏng, theo báo cáo, tính đến năm 2025, số công chức chuyên ngành công nghệ thông tin trong Văn phòng Quốc hội chỉ có 16 người, thậm chí còn giảm so với trước do một số nghỉ việc. Đây là lực lượng quá ít ỏi để đảm đương khối lượng lớn công việc triển khai chuyển đổi số ở một cơ quan tầm cỡ quốc gia.
Việc Viettel chưa bố trí đủ chuyên gia hiểu biết sâu hoạt động Quốc hội cũng gây ra độ trễ trong khảo sát, phân tích nhu cầu nghiệp vụ. Nhân lực hạn chế là điểm nghẽn cần khơi thông bằng cách tăng cường đào tạo nội bộ, thu hút thêm nhân tài công nghệ vào làm việc tại Văn phòng Quốc hội; đồng thời, đẩy mạnh hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ có năng lực.
Thứ hai, hạn chế về tiến độ và chất lượng hệ thống. Báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2025 cho thấy, một số phần mềm khi triển khai thực tế chưa đáp ứng kỳ vọng về tiến độ và ổn định. Ví dụ, các mốc hoàn thành bị trễ so với kế hoạch, phần mềm phát sinh lỗi phải cập nhật thường xuyên trong quá trình sử dụng. Việc khảo sát, phân tích nghiệp vụ tại các cơ quan Quốc hội cũng diễn ra chậm và rời rạc, chưa có cái nhìn tổng thể. Điều này một phần do khối lượng công việc đột biến mà Quốc hội phải xử lý trong giai đoạn 2022 – 2025 với liên tục các kỳ họp bất thường và nhiều dự án luật quan trọng dồn vào cuối nhiệm kỳ.
Do ưu tiên cho nhiệm vụ chuyên môn trước mắt, một số công việc xây dựng hệ thống số bị ảnh hưởng tiến độ. Bên cạnh đó, quy trình đầu tư công nghệ trong cơ quan nhà nước còn phức tạp (phải đấu thầu, xin ý kiến, phê duyệt…) dẫn đến mất thời gian hoàn thiện thủ tục thuê dịch vụ công nghệ thông tin, mua sắm hạ tầng thiết bị. Việc ban hành các quy chế quản lý, khai thác hệ thống thông tin cũng chậm, khiến nhiều nơi chưa mạnh dạn chuyển hẳn sang dùng hệ thống mới. Đây là những tồn tại mang tính “bệnh trẻ” thường gặp của dự án công nghệ thông tin cần được khắc phục bằng cách“vừa làm, vừa sử dụng, vừa điều chỉnh, vừa nâng cấp” như định hướng “vừa chạy vừa xếp hàng” mà lãnh đạo đề ra. Nghĩa là, chấp nhận hệ thống chưa hoàn hảo vẫn đưa vào sử dụng thí điểm, qua đó lấy ý kiến người dùng, hiệu chỉnh liên tục để ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tế, các lỗi phần mềm đang dần được Viettel và Văn phòng Quốc hội xử lý nhưng thách thức lớn hơn là làm sao bắt kịp tốc độ chuyển đổi số của thế giới. Công nghệ thay đổi nhanh nếu không cải tiến kịp thời, hệ thống có nguy cơ lạc hậu chỉ sau vài năm. Do vậy, Quốc hội phải tính đến vòng đời nâng cấp ngắn hơn, bố trí nguồn lực bảo trì, cập nhật thường xuyên, đây là thách thức về quản trị công nghệ lâu dài.
Thứ ba, thách thức về an ninh, an toàn thông tin. Càng ứng dụng công nghệ, nguy cơ rủi ro an ninh mạng càng tăng. Quốc hội là nơi lưu giữ nhiều thông tin quan trọng liên quan đến chính sách, pháp luật, thậm chí cả bí mật quốc gia. Việc đưa tài liệu lên môi trường số đòi hỏi phải bảo đảm an toàn tuyệt đối, tránh lộ lọt thông tin nhạy cảm.
Văn phòng Quốc hội đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng để thẩm định an toàn hệ thống trước khi vận hành. Tuy nhiên, nguy cơ tấn công mạng luôn hiện hữu, đặc biệt là khi Quốc hội bắt đầu kết nối dữ liệu với bên ngoài (Chính phủ, các địa phương). Các cuộc tấn công có chủ đích (APT) vào hệ thống cơ quan nhà nước đang ngày một tinh vi. Do vậy, duy trì cơ chế bảo mật nhiều lớp và liên tục giám sát, ứng phó sự cố là nhiệm vụ sống còn. Đây là thách thức không chỉ về kỹ thuật mà còn về nhận thức, mọi đại biểu và cán bộ cần tuân thủ quy trình bảo mật (như không dùng email cá nhân trao đổi việc công, không cài phần mềm lạ trên iPad được cấp…). Chỉ một sơ hở nhỏ cũng có thể tạo “điểm yếu” cho tin tặc khai thác. Đi đôi với chuyển đổi số, Quốc hội đang xây dựng văn hóa an ninh mạng, coi an ninh thông tin là trách nhiệm của tất cả, không khoán trắng cho bộ phận kỹ thuật.
Thứ tư, thách thức về kinh phí và sự đồng bộ. Chuyển đổi số là quá trình đòi hỏi đầu tư lớn ban đầu (mua sắm hạ tầng, phần mềm) và chi phí thường xuyên cho vận hành, bảo trì. Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, việc cân đối nguồn vốn cho các dự án công nghệ của Quốc hội gặp không ít khó khăn. Mặc dù một phần giải pháp là thuê dịch vụ công nghệ thông tin thay vì đầu tư sở hữu, nhưng ngay cả kinh phí thuê dịch vụ dài hạn cũng phải được bố trí. Nếu không bảo đảm tài chính liên tục, hệ thống có nguy cơ gián đoạn khi hết thời hạn hợp đồng dịch vụ.
Một vấn đề nữa là sự đồng bộ giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị: Quốc hội số sẽ khó phát huy tối đa nếu Chính phủ, Tòa án, Kiểm toán… không chia sẻ dữ liệu và ứng dụng công nghệ thông tin tương thích. Hiện nay, mức độ chuyển đổi số ở các bộ ngành, địa phương rất khác nhau nên khi Quốc hội kết nối liên thông sẽ có chỗ thuận lợi, chỗ vướng mắc. Ví dụ, một số tỉnh chưa số hóa xong văn bản nên khi gửi tài liệu cho đại biểu Quốc hội vẫn phải gửi bản giấy. Hay khi đại biểu yêu cầu thông tin, có cơ quan trả lời qua email điện tử nhưng có nơi vẫn gửi công văn giấy, làm chậm quá trình. Đây là thách thức mang tính liên ngành, cần sự chỉ đạo từ trung ương để tạo mặt bằng chung về chính phủ điện tử ở mọi cấp, bảo đảm Quốc hội số hoạt động “trơn tru” trong tổng thể chính quyền điện tử quốc gia.
3. Định hướng chiến lược xây dựng Quốc hội điện tử hiện đại, công khai, minh bạch, gần dân
Mục tiêu của Việt Nam là xây dựng một Quốc hội số, vận hành hiện đại, minh bạch, hiệu quả trên nền tảng công nghệ số, dữ liệu số và trí tuệ nhân tạo, phục vụ tốt nhất cho các chức năng lập pháp, giám sát, quyết định vấn đề quan trọng và đối ngoại, đồng thời, kết nối chặt chẽ với cử tri.
Một là, hoàn thiện nền tảng kỹ thuật số của Quốc hội theo mô hình tổng thể. Đến năm 2030, Quốc hội sẽ hoàn thành việc chuyển toàn bộ hạ tầng ICT truyền thống sang hạ tầng số tiên tiến (ưu tiên công nghệ điện toán đám mây, dữ liệu lớn).
Toàn bộ quy trình, nghiệp vụ Quốc hội sẽ chạy trên môi trường số và có ứng dụng AI hỗ trợ. Điều này đòi hỏi tiếp tục phát triển, tích hợp các hệ thống phần mềm hỗ trợ tất cả hoạt động cốt lõi: từ lập pháp, giám sát, quyết định ngân sách, nhân sự cấp cao đến công tác đối ngoại, quản lý đại biểu, xử lý đơn thư… Các hệ thống này phải thiết kế phù hợp với kiến trúc tổng thể Quốc hội số đã ban hành, bảo đảm liên kết, chia sẻ dữ liệu với nhau và với bên ngoài. Ví dụ, hệ thống thông tin của Ủy ban Dân nguyện cần kết nối với Cổng Dịch vụ công quốc gia để nhận khiếu nại, tố cáo của người dân; hệ thống quản lý văn bản của Quốc hội phải kết nối với hệ thống Chính phủ để nhận văn bản trình hay cơ sở dữ liệu đại biểu Quốc hội có thể liên thông với cơ sở dữ liệu cán bộ, công chức chung. Bên cạnh đó, Quốc hội sẽ kết nối trực tuyến với nghị viện các nước và IPU nhằm trao đổi thông tin lập pháp và học hỏi kinh nghiệm.
Về hạ tầng vật lý, cần đầu tư bổ sung thiết bị đầu cuối cho đại biểu (máy tính bảng thế hệ mới, thiết bị hội nghị truyền hình…) và nâng cấp mạng truyền dẫn tốc độ cao, ưu tiên sử dụng mạng truyền số liệu chuyên dùng của Chính phủ để tăng bảo mật. Song song, xây dựng trung tâm dữ liệu dự phòng, cơ chế sao lưu thời gian thực để bảo đảm tính liên tục của hệ thống Quốc hội số trong mọi tình huống.
Hai là, xây dựng và khai thác hiệu quả nguồn dữ liệu số của Quốc hội. Dữ liệu được ví như “nguồn dầu mỏ mới” trong kỷ nguyên số. Quốc hội sở hữu khối dữ liệu khổng lồ tích lũy qua các nhiệm kỳ: hàng vạn trang luật, hàng triệu trang biên bản, ý kiến cử tri… Những dữ liệu này cần được số hóa 100% và lưu trữ có hệ thống để phục vụ tra cứu, phân tích.
Đến năm 2026 sẽ số hóa toàn bộ hồ sơ tài liệu không mật và từng bước số hóa tài liệu mật để quản lý trên môi trường số an toàn. Tiếp đó, xây dựng các kho dữ liệu tập trung, như: kho dữ liệu văn bản pháp luật Quốc hội (tất cả luật, pháp lệnh từ trước đến nay), kho dữ liệu thông tin phiên họp Quốc hội (biên bản, video các phiên thảo luận, chất vấn), kho dữ liệu ý kiến cử tri toàn quốc, kho dữ liệu về hoạt động đại biểu… Khi các kho này hình thành, có thể ứng dụng công cụ phân tích dữ liệu và AI để tổng hợp kiến nghị của cử tri, tìm điểm “nóng” dư luận theo vùng miền hoặc phân tích dữ liệu biểu quyết để đánh giá mức độ đồng thuận của Quốc hội với từng chính sách.
Dữ liệu cũng giúp ra quyết định dựa trên bằng chứng, theo đó trước khi ban hành luật, đại biểu có thể tham chiếu dữ liệu tác động chính sách; khi giám sát có thể yêu cầu dữ liệu từ chính quyền để đối chứng. Mặt khác, Quốc hội xác định dữ liệu của mình là tài sản quốc gia cần được chia sẻ có chọn lọc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Một ví dụ là mở dữ liệu luật pháp (open data) cho người dân, doanh nghiệp khai thác sáng tạo các tiện ích tra cứu pháp luật. Đương nhiên, cùng với đó là thiết lập các cơ chế bảo vệ quyền riêng tư, bảo vệ bí mật nhà nước trong dữ liệu số.
Ba là, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động dựa trên công nghệ. Chuyển đổi số không chỉ là mua sắm thiết bị hay cài phần mềm mà quan trọng hơn là cải tiến quy trình làm việc. Quốc hội cần tiếp tục rà soát, chuẩn hóa lại các quy trình nghiệp vụ sao cho phù hợp môi trường số. Ví dụ, quy trình xây dựng luật có thể cải tiến theo hướng ứng dụng các cổng tham vấn điện tử, lấy ý kiến chuyên gia và Nhân dân qua mạng; quy trình chất vấn có thể áp dụng việc đại biểu gửi trước câu hỏi qua hệ thống để bộ trưởng trả lời chính xác hơn; hay quy trình tiếp công dân của đại biểu Quốc hội có thể kết hợp trực tuyến định kỳ.
Các hình thức hoạt động trực tuyến, linh hoạt cần được thể chế hóa đầy đủ. Hiện nay, dự thảo nội quy kỳ họp mới đang đề xuất bổ sung hình thức biểu quyết trực tuyến, họp trực tuyến cho một số trường hợp cần thiết (như: thiên tai, dịch bệnh). Trong tương lai, không loại trừ khả năng Quốc hội sẽ họp trực tuyến nhiều hơn hoặc kết hợp hai hình thức để tạo thuận lợi (như cho phép đại biểu vắng mặt vẫn tham gia thảo luận từ xa). Song, việc đổi mới cách thức hoạt động phải bảo đảm nguyên tắc pháp lý và chất lượng công việc, không chạy theo công nghệ một cách hình thức. Phương châm là lấy hiệu quả làm thước đo, công nghệ nào thực sự giúp tăng hiệu quả thì mạnh dạn áp dụng, đồng thời, lắng nghe phản hồi người dùng để điều chỉnh, không bằng lòng với giải pháp sẵn có.
Bốn là, xây dựng Quốc hội số gần dân, tăng cường tương tác với Nhân dân. Tính “gần dân” của Quốc hội thể hiện ở việc người dân dễ dàng tiếp cận Quốc hội và tham gia vào quá trình xây dựng chính sách. Thời đại số mở ra nhiều cơ hội để hiện thực hóa điều này.
Chiến lược sắp tới cần phát triển nền tảng tham gia điện tử (e-participation) cho phép người dân đóng góp ý kiến về dự thảo luật một cách thuận tiện. Chẳng hạn, có thể thiết lập Cổng tham vấn pháp luật trực tuyến, nơi đăng tải dự thảo và tiếp nhận ý kiến góp ý từ mọi công dân hoặc tổ chức các diễn đàn trực tuyến giữa đại biểu Quốc hội với chuyên gia, nhà khoa học về các vấn đề đang được Quốc hội thảo luận. Những ý kiến từ cộng đồng sẽ được tổng hợp, báo cáo đại biểu trước khi quyết định.
Một khía cạnh khác là truyền thông số về hoạt động của Quốc hội, cần tận dụng mạng xã hội, truyền hình trực tuyến để truyền tải đầy đủ, kịp thời thông tin nghị trường đến người dân. Hiện nay, phiên chất vấn, thảo luận tổ… đã được phát sóng rộng rãi nhưng tương lai có thể tiến tới phát trực tiếp toàn bộ phiên họp công khai của Quốc hội trên internet để bất kỳ ai quan tâm đều theo dõi được. Quốc hội cũng có thể xây dựng ứng dụng di động cho cử tri, cho phép cử tri chọn lĩnh vực quan tâm để nhận cập nhật khi Quốc hội bàn về lĩnh vực đó, đồng thời gửi phản hồi. Những việc làm này sẽ giúp “Quốc hội mở” hơn, tạo điều kiện cho người dân tham gia giám sát, tăng cường niềm tin và sự gắn kết giữa cử tri với cơ quan đại diện của mình.
Năm là, phát triển nguồn nhân lực số và văn hóa đổi mới trong Quốc hội. Chiến lược chuyển đổi số Quốc hội nhấn mạnh phải “lấy đại biểu, cán bộ, công chức, Nhân dân, cử tri làm trung tâm”. Do đó, cần tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng số cho đội ngũ đại biểu và công chức. Việc tổ chức các hội nghị “Bình dân học vụ số” cần duy trì thường niên, nội dung cập nhật theo tiến bộ công nghệ mới nhất. Mỗi khi có phần mềm hoặc hệ thống mới, phải có hướng dẫn sử dụng chi tiết và hỗ trợ kỹ thuật kịp thời cho người dùng.
Bên cạnh kỹ năng, phải xây dựng văn hóa chấp nhận đổi mới, sáng tạo. Lãnh đạo Quốc hội đã nêu gương khi xác định phải không ngừng lắng nghe, cập nhật, nâng cấp sản phẩm chuyển đổi số. Văn hóa này cần được lan tỏa, mỗi đơn vị trong Quốc hội chủ động đề xuất sáng kiến ứng dụng công nghệ thông tin vào công việc, coi việc cải tiến quy trình qua số hóa là một chỉ tiêu thi đua. Đồng thời, gắn trách nhiệm người đứng đầu mỗi cơ quan phải đi đầu sử dụng hệ thống và đôn đốc cấp dưới thực hiện, tránh tình trạng việc ai nấy làm. Việc đưa tiêu chí ứng dụng công nghệ thông tin vào đánh giá cán bộ hay khen thưởng đơn vị làm tốt chuyển đổi số là cần thiết để khích lệ nhân lực phát huy hết tiềm năng.
Sáu là, bảo đảm gắn kết chuyển đổi số Quốc hội với chuyển đổi số quốc gia. Quốc hội số không thể tách rời bối cảnh chung của đất nước. Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã yêu cầu gắn mục tiêu chuyển đổi số Quốc hội với chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng năm 2030. Vì vậy, chiến lược Quốc hội số phải đặt trong tổng thể xây dựng Chính phủ số, xã hội số.
Quốc hội cần phối hợp chặt với Chính phủ trong triển khai các dự án lớn, như: cơ sở dữ liệu quốc gia, hệ thống định danh và xác thực điện tử (VNeID)… để tích hợp phục vụ lẫn nhau. Đơn cử, đại biểu Quốc hội có thể sử dụng định danh điện tử thống nhất khi truy cập mọi hệ thống; hay dữ liệu Quốc hội cung cấp (ví dụ kết quả giám sát) có thể nhập vào kho dữ liệu dùng chung Chính phủ. Ở tầm vĩ mô, Quốc hội cũng phải hoàn thiện khung pháp luật để dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia thông qua các luật quan trọng, như: Luật Chuyển đổi số, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, sửa đổi Luật Giao dịch điện tử, Luật Viễn thông… Bản thân Quốc hội khi đó sẽ hưởng lợi từ việc cả xã hội chuyển đổi số đồng bộ, tạo môi trường sẵn sàng về hạ tầng và thói quen công nghệ trong người dân, doanh nghiệp.
4. Kết luận
Chiến lược Quốc hội số trong giai đoạn tới hướng đến việc xây dựng một mô hình Quốc hội điện tử hiện đại, công khai, minh bạch và gần dân. Quốc hội sẽ tận dụng tối đa thành tựu của công nghệ số và trí tuệ nhân tạo để nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời vẫn giữ vững nguyên tắc công khai, minh bạch trong mọi quyết định và đặc biệt luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân. Chuyển đổi số Quốc hội đang ở giai đoạn đầu với thành công và thách thức đan xen. Những kết quả ban đầu khẳng định hướng đi đúng đắn và lợi ích rõ rệt của Quốc hội số. Song để tiến xa hơn, Quốc hội phải tiếp tục nỗ lực khắc phục các tồn tại về nhân lực, kỹ thuật, an ninh cũng như cần sự ủng hộ mạnh mẽ về nguồn lực tài chính và phối hợp liên ngành.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2014, 2020, 2025). Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2025).
1. Kỷ lục về dự án luật, nghị quyết tại kỳ họp lịch sử của Quốc hội. https://thanhtra.com.vn/hoan-thien-the-che-D4AD3DB96/ky-luc-ve-du-an-luat-nghi-quyet-tai-ky-hop-lich-su-cua-quoc-hoi-023986feb.html.
2. https://quochoi.vn/Pages/default.aspx.



