ThS. Nguyễn Thị Khánh Chi
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ThS. Trần Minh Quang
Cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích cơ chế xây dựng, ban hành nghị quyết liên tịch ba bên giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Dựa trên phân tích thực tiễn và những kinh nghiệm được rút ra, bài viết đề xuất giải pháp phát huy hiệu quả của hình thức văn bản này trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ khóa: Nghị quyết liên tịch; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; quy trình lập pháp; phản biện xã hội; phối hợp liên ngành.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công tác hoàn thiện thể chế pháp luật được xác định là một đột phá chiến lược. Một trong những đổi mới quan trọng của hệ thống pháp luật là việc thể chế hóa cơ chế nghị quyết liên tịch ba bên giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cơ chế này không đơn thuần là một sự bổ sung kỹ thuật về hình thức văn bản mà đại diện cho một sự thay đổi trong tư duy quản trị quốc gia, chính thức hóa một “tam giác quyền lực” phối hợp, nơi quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền giám sát xã hội được tích hợp vào một công cụ pháp lý duy nhất, có tính ràng buộc chung.
Mặc dù nghị quyết liên tịch ba bên đã chứng tỏ hiệu quả cao trong việc điều phối các sự kiện quốc gia phức tạp, điển hình là cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026, tuy nhiên, sự thành công lâu dài và khả năng áp dụng rộng rãi phụ thuộc vào việc giải quyết những khoảng trống về năng lực thể chế, đặc biệt là trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và việc chính thức hóa các cơ chế phối hợp liên ngành cũng như quy trình giải quyết bất đồng. Bằng cách phân tích sâu khung pháp lý, đánh giá thực tiễn triển khai và đề xuất các giải pháp khả thi, bài viết hướng tới việc cung cấp luận cứ khoa học nhằm tối ưu hóa hiệu quả của thiết chế đặc thù này.
2. Nền tảng pháp lý của cơ chế nghị quyết liên tịch ba bên
2.1. Sự phát triển của cơ chế phối hợp lập quy
Hình thức nghị quyết liên tịch đã trải qua một quá trình phát triển, phản ánh sự thay đổi trong nhận thức về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị – xã hội. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 lần đầu tiên ghi nhận hình thức nghị quyết liên tịch hai bên giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chủ yếu để quy định chi tiết những vấn đề được luật giao.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 và sau đó được khẳng định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 khi chính thức bổ sung hình thức nghị quyết liên tịch ba bên. Sự phát triển này không phải là một sửa đổi pháp lý đơn thuần mà là một lựa chọn chính trị và thể chế có chủ đích, qua đó, phản ánh sự thừa nhận về một số vấn đề quốc gia trọng đại, như: bầu cử hay trưng cầu ý dân có độ phức tạp cao, không thể chỉ do bộ máy nhà nước quản lý mà cần được thể chế hóa của một cơ quan đại diện xã hội để bảo đảm tính toàn diện và sự đồng thuận của Nhân dân.
Hệ thống chính trị hiện có một bộ công cụ quản trị đa dạng: nghị quyết liên tịch, nghị quyết liên tịch hai bên hoặc nghị quyết liên tịch ba bên. Việc lựa chọn cơ chế nào cho thấy tầm quan trọng chính trị và mức độ phức tạp của vấn đề cần giải quyết. Cơ chế nghị quyết liên tịch hai bên vẫn được duy trì cho các vấn đề phối hợp thường xuyên, trong khi cơ chế ba bên được dành cho những vấn đề có tầm ảnh hưởng sâu rộng, đòi hỏi sự thống nhất ý chí ở cấp cao nhất.
2.2. Bản chất của “tam giác phối hợp”
Cơ chế nghị quyết liên tịch ba bên kết hợp thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (đại diện quyền lập pháp), Chính phủ (đại diện quyền hành pháp) và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (đại diện cho quyền giám sát và phản biện xã hội của Nhân dân) đã chuyển đổi vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ một cơ quan tham vấn, đưa ra các ý kiến không ràng buộc trở thành một chủ thể đồng ban hành, có quyền biểu quyết ngang hàng trong việc thông qua nội dung văn bản.
Vị thế mới này được củng cố mạnh mẽ bởi quy định pháp lý yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo phải trả lời bằng văn bản đối với ý kiến phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là một bảo đảm thủ tục quan trọng, nâng tầm các kiến nghị của Mặt trận từ những gợi ý đơn thuần thành một phần chính thức, có trách nhiệm giải trình trong hồ sơ lập pháp.
Cấu trúc mới này tạo ra một hệ thống “trách nhiệm giải trình theo chiều ngang” giữa ba trụ cột. Việc triển khai của Chính phủ được giám sát bởi quyền lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và sự giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hoạt động xây dựng pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được điều chỉnh bởi các mối quan tâm thực tiễn của Chính phủ và sự phản ánh tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân từ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Về cơ bản, tạo ra một cơ chế kiểm soát và cân bằng độc đáo, nơi quyền lực xã hội được tích hợp một cách chính thức vào hoạt động lập pháp.
Bảng 1. Quy trình xây dựng nghị quyết liên tịch
| STT | Giai đoạn/Hoạt động | Ủy ban Thường vụ Quốc hội | Chính phủ | Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam |
| 1 | Lập đề nghị xây dựng | Xây dựng đề nghị; cho ý kiến đối với đề nghị của bên khác; thống nhất đưa vào chương trình | Xây dựng đề nghị; cho ý kiến đối với đề nghị của bên khác; thống nhất đưa vào chương trình | Xây dựng đề nghị; cho ý kiến đối với đề nghị của bên khác; thống nhất đưa vào chương trình |
| 2 | Phân công chủ trì và thành lập Ban soạn thảo | Phân công cơ quan chủ trì soạn thảo; cử đại diện tham gia Ban soạn thảo | Cử đại diện tham gia; có thể được phân công chủ trì soạn thảo | Cử đại diện tham gia Ban soạn thảo, Tổ biên tập; có thể được phân công chủ trì soạn thảo |
| 3 | Soạn thảo dự thảo | Đóng góp ý kiến chuyên môn về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật | Đóng góp ý kiến chuyên môn về tính khả thi, nguồn lực thực hiện, sự phù hợp với hệ thống văn bản hành chính | Đóng góp ý kiến về tính phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân; tính khả thi từ góc độ xã hội |
| 4 | Tổ chức lấy ý kiến và phản biện xã hội | Góp ý với tư cách cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân; tạo điều kiện cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phản biện | Chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương góp ý; nghiên cứu, giải trình, tiếp thu và trả lời bằng văn bản đối với ý kiến phản biện | Chủ trì tổ chức lấy ý kiến các tổ chức thành viên, các tầng lớp nhân dân; chủ trì tổ chức phản biện xã hội độc lập |
| 5 | Thẩm định/ thẩm tra | Chủ trì tổ chức thẩm tra tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội | Gửi hồ sơ để Bộ Tư pháp chủ trì thẩm định | Cung cấp các báo cáo, tài liệu liên quan cho cơ quan thẩm định, thẩm tra |
| 6 | Thông qua, ký ban hành | Thảo luận, biểu quyết tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chủ tịch Quốc hội thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội ký ban hành | Thảo luận, biểu quyết tại phiên họp Chính phủ; Thủ tướng Chính phủ thay mặt Chính phủ ký ban hành | Thảo luận, biểu quyết tại kỳ họp Đoàn Chủ tịch; Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thay mặt Đoàn Chủ tịch ký ban hành |
3. Hiệu quả triển khai Nghị quyết liên tịch số 09/2021/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 -2026 là một minh chứng rõ nét cho hiệu quả của cơ chế nghị quyết liên tịch ba bên. Các số liệu tổng kết cho thấy, sự thành công vượt trội của sự kiện chính trị này là tỷ lệ cử tri đi bầu đạt 99,57%, cao hơn cả tỷ lệ cử tri đi bầu của khóa trước (đạt hơn 98%)1.
Những con số này không chỉ là kết quả mang tính mô tả mà còn là các chỉ số đo lường hiệu suất (KPIs) cho thấy, sự thành công của cuộc bầu cử. Thành công này có sự đóng góp của Nghị quyết liên tịch số 09/2021/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn quy trình hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026. Nghị quyết quy định các bên liên quan, từ các cơ quan trung ương đến các tổ bầu cử ở cơ sở, định hướng toàn bộ quy trình từ các vòng hiệp thương giới thiệu người ứng cử đến kiểm phiếu cuối cùng.
Bộ máy của Chính phủ, cơ chế giám sát pháp lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và mạng lưới cơ sở của Mặt trận Tổ quốc đều được đồng bộ hóa trong Nghị quyết liên tịch số 09/2021/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN. Điều này đã tạo ra một sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy tỷ lệ tham gia cao và sự vận hành trật tự của cuộc bầu cử. Quá trình xây dựng nghị quyết liên tịch không chỉ tạo ra một văn bản tốt mà còn tạo được sự đồng thuận và thống nhất hành động cần thiết, chuyển lập luận từ mối tương quan (có nghị quyết liên tịch, bầu cử thành công) sang mối quan hệ nhân quả (quá trình hợp tác bắt buộc theo cơ chế nghị quyết liên tịch đã tạo ra nỗ lực thống nhất dẫn đến thành công).
Mặc dù có hiệu quả nhất định, quá trình triển khai Nghị quyết liên tịch số 09/2021/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN cũng bộc lộ những hạn chế, như:
Thứ nhất, tại một số cơ sở triển khai còn mang tính hình thức. Mặc dù khuôn khổ pháp lý đã đầy đủ nhưng quá trình tổ chức ở một số nơi còn chưa thực chất. Công tác hiệp thương ở nhiều địa phương thiếu tính cạnh tranh, chủ yếu hợp thức hóa danh sách ứng cử viên do cơ quan, tổ chức giới thiệu. Việc lấy ý kiến tín nhiệm của cử tri đối với ứng viên nhiều khi chỉ mang tính thủ tục, đặc biệt đối với các ứng viên độc lập. Hạn chế này xuất phát từ tâm lý e ngại rủi ro, muốn chọn giải pháp an toàn của các cơ quan tổ chức bầu cử địa phương dẫn đến chưa mở rộng dân chủ như mục tiêu đề ra.
Thứ hai, chưa phát huy đầy đủ vai trò của Mặt trận trong giám sát bầu cử. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp cơ sở nhiều nơi chưa chủ động trong giám sát; năng lực giám sát hạn chế, hiệu quả chưa cao. Trong quá trình bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (nhiệm kỳ 2021 – 2026), Mặt trận có cử cán bộ tham gia các đoàn kiểm tra, giám sát liên ngành nhưng việc phát hiện và xử lý vi phạm chủ yếu vẫn do các cơ quan khác thực hiện. Kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc sau giám sát đôi khi chưa được các cơ quan chức năng phản hồi kịp thời do pháp luật chưa quy định cụ thể việc các cơ quan nhà nước phải trả lời, tiếp thu kiến nghị giám sát của Mặt trận Tổ quốc các cấp.
Thứ ba, sự phối hợp chưa đồng bộ giữa các bên. Việc phối hợp thực tế giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đôi khi còn bất cập do khác biệt về chức năng và ưu tiên của mỗi bên. Trong bầu cử, Hội đồng Bầu cử quốc gia do Quốc hội thành lập đóng vai trò trung tâm nhưng vẫn cần sự phối hợp từ Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đã có thời điểm công tác chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 ảnh hưởng tới lịch trình bầu cử, đòi hỏi các bên phải điều chỉnh linh hoạt. Việc này diễn ra tương đối thuận lợi, song cũng bộc lộ cơ chế họp bàn, trao đổi giữa ba bên chưa được thiết kế một cách thường xuyên ngoài các văn bản đã ban hành.
Thứ tư, hạn chế trong phối hợp xây dựng pháp luật và phản biện xã hội. Thực tế cho thấy, việc lấy ý kiến Nhân dân, ý kiến Mặt trận đối với các dự thảo luật, chính sách nhiều lúc còn hình thức, chưa trở thành quy trình bắt buộc. Một số cơ quan soạn thảo chưa chủ động gửi dự thảo văn bản để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức phản biện, khiến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở địa phương bị động, khó thực hiện đầy đủ chức năng phản biện. Số lượng hội nghị phản biện xã hội do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức ở cấp xã còn rất ít; tiếng nói góp ý của các tầng lớp nhân dân chưa được tập hợp rộng rãi.
4. Một số giải pháp
Một là, thiết lập cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia một cách thực chất, sớm hơn vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật. Cụ thể, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên được mời tham gia ngay từ giai đoạn lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm của Quốc hội. Khi soạn thảo các dự án luật quan trọng, cần có đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong ban soạn thảo hoặc tổ biên tập để phản ánh kịp thời ý kiến của các tầng lớp nhân dân. Quốc hội và Chính phủ nên ban hành quy chế tham vấn bắt buộc đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quy trình lập pháp. Mọi dự thảo luật liên quan đến quyền, lợi ích của Nhân dân đều phải gửi lấy ý kiến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở trung ương và địa phương. Kết quả tổng hợp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc Việt Namcần được cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo và giải trình trước Quốc hội khi trình dự luật. Quy định này sẽ bảo đảm tiếng nói phản biện xã hội được lắng nghe một cách hệ thống.
Hai là, tăng cường cơ chế phối hợp giám sát, phản biện giữa Quốc hội và Mặt trận: Quốc hội, đặc biệt là Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội nên thiết lập mối liên hệ thường xuyên, chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát. Một mặt, Mặt trận Tổ quốc Việt Namcác cấp có thể tham gia các đoàn giám sát của Quốc hội khi tiến hành giám sát chuyên đề tại địa phương, qua đó, đóng góp thông tin từ cơ sở và phản ánh ý kiến của Nhân dân. Mặt khác, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần có cơ chế tiếp nhận các báo cáo giám sát xã hội độc lập của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ví dụ, định kỳ hằng năm, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có thể gửi báo cáo tổng hợp những vấn đề nổi cộm qua kênh giám sát nhân dân, kiến nghị Quốc hội đưa vào chương trình giám sát tối cao hoặc chất vấn tại nghị trường. Sau mỗi cuộc giám sát tối cao của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp nên phối hợp theo dõi việc thực hiện các nghị quyết giám sát của Quốc hội tại địa phương và phản hồi kết quả về cho Quốc hội và Chính phủ. Cần hình thành một chu trình khép kín cùng phối hợp trong hậu giám sát nhằm kịp thời phát hiện nơi nào chưa thực hiện nghiêm kết luận giám sát để có biện pháp chấn chỉnh. Song song đó, cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri và Nhân dân. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội nên phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để theo dõi sát sao việc các cơ quan hành chính trả lời kiến nghị cử tri, qua đó, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân được tôn trọng.
Ba là, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp về công tác giám sát, phản biện xã hội và tham gia xây dựng pháp luật. Mặt trận nên xây dựng các bộ tài liệu hướng dẫn, mở các lớp tập huấn chuyên sâu về kỹ năng nghiên cứu chính sách, kỹ năng thu thập và phân tích ý kiến, kỹ năng viết báo cáo kiến nghị… Bên cạnh đó, Nhà nước cần bảo đảm kinh phí hoạt động cho các chương trình giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận. Khi nguồn lực tài chính đầy đủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mới có điều kiện mở rộng phạm vi giám sát, thu hút được nhiều chuyên gia, nhiều tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp ý kiến, qua đó, nâng cao chất lượng và tính thuyết phục của các kiến nghị xã hội.
Bốn là, xây dựng Quy chế phối hợp công tác thường xuyên giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Quy chế này có thể ban hành dưới dạng một nghị quyết liên tịch khung, quy định mục đích, nguyên tắc, nội dung, cơ chế và trách nhiệm phối hợp giữa ba bên trong các lĩnh vực trọng yếu. Một cơ chế phối hợp thường xuyên, được vận hành thông suốt từ trung ương đến địa phương sẽ bảo đảm mọi ý kiến, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân được tiếp nhận, phản ánh đầy đủ; đồng thời, giúp các quyết sách của Quốc hội, Chính phủ triển khai hiệu quả, có sự giám sát của Nhân dân.
5. Kết luận
Việc hoàn thiện cơ chế nghị quyết liên tịch ba bên giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động lập pháp và giám sát, phản biện xã hội trong giai đoạn mới. Thông qua hệ thống giải pháp đồng bộ từ hoàn thiện pháp luật, tăng cường phối hợp quy trình, nâng cao năng lực đến bảo đảm nguồn lực, cơ chế này kỳ vọng sẽ phát huy tối đa vai trò của mỗi bên, tạo hiệu ứng cộng hưởng trong quản trị quốc gia. Qua đó, quyền làm chủ của Nhân dân được thực thi sâu rộng hơn, chất lượng và tính minh bạch của hoạt động lập pháp, giám sát được nâng lên, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ngày càng vững mạnh.
Chú thích:
1. Tỷ lệ cử tri đi bầu đạt 99,57%, cuộc bầu cử thành công tốt đẹp. https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/ty-le-cu-tri-di-bau-dat-99-57-cuoc-bau-cu-thanh-cong-tot-dep-660825
Tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ (2025). Nghị định số 78/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.
2. Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2016). Nghị quyết liên tịch số 88/NQLT/CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 7/10/2016 phối hợp thực hiện giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
3. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2021). Nghị quyết liên tịch số 09/2021/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 15/01/2021 hướng dẫn quy trình hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026.
4. Quốc hội (2015). Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015.
5. Quốc hội (2015, 2025). Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, 2025.
6. Quốc hội (2020). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020.



