Bài 3: Đổi mới, nâng cao hiệu quả mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri nhằm xây dựng Quốc hội dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, pháp quyền

TS. Phạm Văn Phong
Tạp chí Cộng sản

(Quanlynhanuoc.vn) – Mối liên hệ gắn bó giữa đại biểu Quốc hội với cử tri có ý nghĩa nền tảng đối với chức năng đại diện và bản chất dân chủ của Quốc hội. Thông qua việc tiếp xúc, lắng nghe ý kiến Nhân dân, đại biểu Quốc hội thực hiện cầu nối giữa Quốc hội và Nhân dân, thể hiện bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đây chính là biểu hiện sinh động của dân chủ đại diện trong hệ thống chính trị nước ta.

Từ khóa: Quốc hội, Nhà nước pháp quyền, hệ thống chính trị.

1. Vai trò của mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội và cử tri

Trước hết, liên hệ chặt chẽ với cử tri giúp đại biểu Quốc hội nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng, ý kiến của Nhân dân. Những vấn đề “nóng” người dân quan tâm có thể được đại biểu đưa ra nghị trường, làm cơ sở cho hoạt động chất vấn, thảo luận chính sách. Thực tiễn cho thấy, nhiều nguyện vọng, kiến nghị chính đáng của cử tri đã được Quốc hội tiếp thu và thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho người dân. Như vậy, mối liên hệ đại biểu Quốc hội – cử tri bảo đảm các quyết sách của Quốc hội phù hợp với ý chí và lợi ích của Nhân dân, qua đó tăng cường tính dân chủ và tính đại diện trong hoạt động lập pháp, quyết định của Quốc hội.

Bên cạnh đó, thông qua tiếp xúc cử tri, đại biểu Quốc hội thực hiện trách nhiệm giải trình trước Nhân dân. Đại biểu báo cáo với cử tri về chương trình nghị sự, kết quả các kỳ họp Quốc hội, đồng thời chịu sự giám sát trực tiếp của cử tri về việc thực hiện chương trình hành động và lời hứa khi vận động bầu cử. Mối quan hệ hai chiều này góp phần củng cố tính pháp quyền và minh bạch: cử tri có điều kiện giám sát hoạt động của đại biểu, bảo đảm đại biểu thực thi nhiệm vụ theo đúng Hiến pháp, pháp luật và đáp ứng mong đợi của Nhân dân.

Không chỉ phản ánh nguyện vọng lên Quốc hội, đại biểu Quốc hội còn có trách nhiệm giải thích, phổ biến quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước tới cử tri. Qua đó, cử tri hiểu rõ hơn các quyết sách vĩ mô, tạo sự đồng thuận xã hội trong quá trình triển khai chính sách, pháp luật. Như vậy, mối liên hệ đại biểu Quốc hội – cử tri vừa giúp phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, vừa góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống hiệu quả hơn.

Một mối liên hệ gắn bó, hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của đại biểu và niềm tin của Nhân dân đối với Quốc hội. Quốc hội chỉ có thể thật sự “vững mạnh, xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân” khi mỗi đại biểu biết dựa vào dân, lắng nghe dân và hành động vì lợi ích của dân. Do đó, đổi mới, tăng cường mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội và cử tri chính là điều kiện cốt yếu để xây dựng Quốc hội dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, pháp quyền, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

2. Thực trạng mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội và cử tri

2.1. Những kết quả đạt được

Trong các nhiệm kỳ vừa qua, hoạt động giữ mối liên hệ với cử tri của đại biểu Quốc hội đã có nhiều chuyển biến tích cực cả về khuôn khổ pháp lý lẫn thực tiễn triển khai. Điều 27 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2025) quy định cụ thể trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong việc tiếp xúc cử tri định kỳ, báo cáo kết quả kỳ họp và chuyển kiến nghị của cử tri đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Theo thông lệ, trước và sau mỗi kỳ họp Quốc hội, đại biểu Quốc hội đều tổ chức tiếp xúc cử tri tại địa phương nơi mình ứng cử để thông tin về nội dung kỳ họp, đồng thời lắng nghe ý kiến, kiến nghị của cử tri. Hoạt động này được tổ chức công khai, chặt chẽ với sự phối hợp của Đoàn đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc và chính quyền địa phương, dần đi vào nền nếp thống nhất trên phạm vi cả nước.

Nhiều đại biểu Quốc hội đã chủ động, sáng tạo đa dạng hóa hình thức tiếp xúc cử tri. Ngoài các cuộc tiếp xúc định kỳ theo luật định, một số đại biểu tổ chức tiếp xúc cử tri theo chuyên đề về những vấn đề “nóng” như giáo dục, y tế, môi trường… để lắng nghe ý kiến từ các nhóm cử tri chuyên biệt. Chẳng hạn, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội nhiệm kỳ XIV đã triển khai các buổi tiếp xúc chuyên đề với cử tri ngành Giáo dục, ngành Y tế để thu thập ý kiến chuyên sâu, qua đó giúp đại biểu có thêm cơ sở thực tiễn khi tham gia quyết sách. Bước sang nhiệm kỳ Quốc hội (khóa XV), mặc dù chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, hoạt động tiếp xúc cử tri vẫn được duy trì thông qua hình thức trực tuyến ở nhiều nơi, giúp mở rộng phạm vi tiếp cận cử tri và tăng số lượng người tham gia. Nhờ kết hợp họp trực tiếp và trực tuyến, nhiều hội nghị tiếp xúc cử tri (khóa XV) thu hút đông đảo cử tri (trung bình có thể cao hơn 100 – 300 người mỗi buổi ở khóa XIV) và số lượng ý kiến, kiến nghị thu nhận được cũng gia tăng đáng kể.

Chất lượng tiếp xúc cử tri từng bước được nâng lên. Nội dung tiếp xúc ngày càng đi vào thực chất hơn, không chỉ dừng ở việc đại biểu thông báo một chiều, mà đã có thảo luận, đối thoại giữa đại biểu với cử tri về nhiều vấn đề quan trọng. Nhiều kiến nghị của cử tri được đại biểu Quốc hội giải đáp trực tiếp hoặc tiếp thu để phản ánh tới Quốc hội và các cơ quan chức năng. Đặc biệt, công tác tiếp nhận, phân loại và theo dõi việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến đại biểu Quốc hội có nhiều tiến bộ. Trong hai nhiệm kỳ gần đây, các đại biểu Quốc hội (đặc biệt là đại biểu không chuyên trách thường trú tại địa phương) đã tích cực phối hợp cùng Ban Dân nguyện (từ năm 2025 là Ủy ban Dân nguyện và Giám sát) và các cơ quan hữu quan để đôn đốc giải quyết nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhiều báo cáo giám sát chuyên đề của Quốc hội đã kiến nghị sửa đổi chính sách, pháp luật nhằm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc từ thực tiễn đời sống do cử tri phản ánh.

Hoạt động tiếp xúc cử tri thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Mối quan hệ phối hợp giữa Đoàn đại biểu Quốc hội với Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp ngày càng chặt chẽ, góp phần tổ chức tốt các cuộc tiếp xúc cử tri. Nhiều đại biểu Quốc hội gần dân, sát dân, lắng nghe và phản ánh trung thực ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Những kiến nghị chính đáng của cử tri đã và đang được giải quyết ngày một hiệu quả hơn, qua đó củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Quốc hội.

2.2. Hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả nêu trên, thực trạng mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri vẫn còn một số hạn chế, bất cập cần khắc phục.

Thứ nhất, tần suất và hình thức tiếp xúc cử tri còn chưa đa dạng. Phần lớn các đại biểu Quốc hội hiện nay mới chỉ thực hiện tiếp xúc cử tri theo hình thức định kỳ trước và sau mỗi kỳ họp Quốc hội, trong khi chưa quan tâm đúng mức tới các hình thức tiếp xúc chuyên đề, theo lĩnh vực hoặc đối tượng cụ thể. Việc tổ chức tiếp xúc cử tri đôi khi còn mang tính hình thức, đối phó.

Nội dung các buổi tiếp xúc ở nhiều nơi vẫn thiên về báo cáo chương trình, nội dung kỳ họp hơn là thảo luận hai chiều. Đại biểu thường chỉ thông tin những vấn đề Quốc hội sẽ hoặc đã xem xét, thông qua, mà ít dành thời gian để cử tri nghiên cứu trước hoặc góp ý kiến sâu vào dự thảo luật, chính sách liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ. Do đó, một số cuộc tiếp xúc trở nên đơn điệu, thiếu sinh động, chưa đáp ứng được kỳ vọng của cử tri và chưa gợi mở được nhiều ý kiến xác đáng từ người dân. Hệ quả là không ít buổi tiếp xúc có số lượng cử tri tham dự thấp, số ý kiến, kiến nghị thu được hạn chế; thậm chí có Đoàn đại biểu Quốc hội chưa nghiêm túc thực hiện việc tổng hợp báo cáo kiến nghị cử tri gửi về Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định.

Thứ hai, thành phần cử tri tham gia và nội dung phản ánh còn bất cập. Nhiều cuộc tiếp xúc cử tri hiện nay chủ yếu thu hút sự tham gia của cán bộ hưu trí, người cao tuổi, cán bộ cấp xã, phường hoặc những cá nhân có khiếu nại về chế độ, chính sách; trong khi đó, sự hiện diện của thanh niên, công nhân, doanh nhân và các tầng lớp Nhân dân khác còn hạn chế.

Ở một số nơi xuất hiện tình trạng “cử tri chuyên nghiệp”, “cử tri đại diện” – tức chỉ một nhóm nhỏ người thường xuyên tham dự các buổi tiếp xúc và phát biểu, chưa phản ánh đầy đủ, đa chiều tiếng nói của cộng đồng. Mặt khác, nhiều ý kiến cử tri nêu ra tại các buổi tiếp xúc vẫn chủ yếu xoay quanh những vấn đề bức xúc thuộc thẩm quyền giải quyết của chính quyền địa phương (như: chính sách đền bù đất đai, vệ sinh môi trường ở địa bàn cụ thể,…), thay vì đóng góp ý kiến vào các vấn đề vĩ mô, mang tầm quốc gia. Điều này phần nào cho thấy, hiệu quả định hướng nội dung tiếp xúc còn chưa cao, đại biểu chưa tạo được diễn đàn để cử tri bày tỏ ý kiến về các chủ trương lớn, dự án luật quan trọng.

Thứ ba, hạn chế về thời gian và điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội ảnh hưởng không nhỏ tới việc giữ liên hệ với cử tri. Hiện nay, đa số đại biểu Quốc hội là đại biểu không chuyên trách (chiếm khoảng 60-70% tùy nhiệm kỳ), họ phải kiêm nhiệm công tác tại địa phương hoặc cơ quan, đơn vị mình, do đó chỉ có thể dành khoảng 1/3 quỹ thời gian cho hoạt động Quốc hội. Quỹ thời gian hạn hẹp khiến một số đại biểu chưa tham gia đầy đủ các hoạt động tiếp xúc cử tri, hoặc nếu có tham dự thì cũng khó bố trí thêm các buổi tiếp xúc ngoài định kỳ. Mặt khác, điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho công tác tiếp xúc cử tri ở một số địa phương còn hạn chế (chẳng hạn trang thiết bị hội trường, phương tiện trực tuyến chưa đồng bộ), phần nào ảnh hưởng đến chất lượng các cuộc gặp gỡ, trao đổi với cử tri.

Ngoài ra, cơ chế theo dõi, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị cử tri tuy đã có tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng kỳ vọng. Một số kiến nghị sau khi chuyển đến cơ quan chức năng còn chậm được phản hồi hoặc giải quyết chưa thấu đáo, gây tâm lý thiếu tin tưởng ở một bộ phận cử tri. Công tác tổng hợp, báo cáo ý kiến cử tri đôi lúc còn hình thức, chưa phản ánh đầy đủ những bức xúc của người dân, dẫn đến vẫn có khoảng cách giữa quyết sách của Quốc hội với thực tiễn cuộc sống.

Những hạn chế nêu trên do nguyên nhân chủ quan và khách quan.

Về khách quan, bối cảnh phát triển kinh tế – xã hội nhanh chóng, vấn đề dân sinh ngày càng đa dạng, phức tạp khiến công tác tiếp xúc cử tri đối mặt nhiều thách thức (ví dụ: nhiều vấn đề cử tri nêu vượt thẩm quyền của đại biểu, đòi hỏi sự phối hợp liên ngành để giải quyết). Đại dịch Covid-19 cũng từng gây gián đoạn các cuộc tiếp xúc trực tiếp, đòi hỏi thích ứng phương thức mới.

Về chủ quan, như phân tích, hạn chế về quỹ thời gian, kỹ năng của đại biểu và cách thức tổ chức tiếp xúc là những điểm nghẽn chính. Nội dung tiếp xúc chưa đổi mới, thiếu tính thời sự (đặc biệt ở các buổi tiếp xúc sau kỳ họp, do khoảng cách thời gian ngắn nên ít kiến nghị mới), trong khi chưa linh hoạt áp dụng tiếp xúc theo nhóm nhỏ, theo chuyên đề hoặc cá nhân. Nếu không sớm khắc phục, những hạn chế này sẽ làm giảm hiệu quả mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của Quốc hội.

3. Giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri trong thời gian tới

Để xây dựng Quốc hội ngày càng dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, pháp quyền cần triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm đổi mới, tăng cường hiệu quả mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri trên phạm vi toàn quốc.

Một là, đa dạng hóa hình thức và nâng cao tần suất tiếp xúc cử tri. Bên cạnh các cuộc tiếp xúc định kỳ trước và sau kỳ họp, đại biểu Quốc hội cần tăng cường tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, theo nhóm đối tượng và tại cơ sở. Mỗi Đoàn đại biểu Quốc hội có thể xây dựng kế hoạch hằng quý tổ chức thêm các buổi tiếp xúc chuyên đề (2-3 buổi/năm) về những vấn đề thời sự, sát sườn với đời sống người dân (như quản lý đất đai, ô nhiễm môi trường, cải cách giáo dục,…).

Chú trọng đưa đại biểu về tiếp xúc trực tiếp ở địa bàn cơ sở (thôn, bản, tổ dân phố) chứ không chỉ họp cử tri ở trụ sở xã, bảo đảm đúng tinh thần Nghị quyết liên tịch số 72/2025/NQLT ngày 20/02/2025 của Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định chi tiết việc tổ chức tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Việc đa dạng hóa hình thức và địa bàn tiếp xúc sẽ giúp mở rộng phạm vi lắng nghe ý kiến Nhân dân, khắc phục tình trạng tập trung tiếp xúc ở cấp hành chính cao và chỉ gặp một nhóm cử tri quen thuộc.

Hai là, đổi mới nội dung và cách thức tiến hành tiếp xúc cử tri, cần chuyển trọng tâm từ thông tin một chiều sang đối thoại hai chiều, thảo luận thực chất. Trước mỗi kỳ họp, đại biểu Quốc hội nên cung cấp trước cho cử tri tài liệu tóm tắt về các dự thảo luật, chính sách quan trọng dự kiến đưa ra Quốc hội (có thể qua cổng thông tin điện tử hoặc ứng dụng di động). Điều này tạo điều kiện để cử tri nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến đóng góp.

Tại các buổi tiếp xúc, đại biểu cần “gợi mở để cử tri góp ý, đặc biệt đối với dự án luật liên quan đến quyền lợi Nhân dân”, đồng thời định hướng để các ý kiến tập trung vào những vấn đề lớn của đất nước, hạn chế sa vào phản ánh sự vụ địa phương. Có thể mời chuyên gia, nhà khoa học tham dự các cuộc tiếp xúc chuyên đề để trực tiếp giải đáp thắc mắc của cử tri về những vấn đề kỹ thuật, qua đó nâng cao chất lượng thảo luận. Cách làm này vừa giúp nội dung tiếp xúc phong phú, sinh động hơn, vừa thể hiện tinh thần dân chủ, cầu thị lắng nghe nhiều chiều. Song song đó, cần cải tiến công tác tổ chức: bố trí thời gian hợp lý (tránh trùng giờ hành chính để công nhân, người lao động có thể tham gia), linh hoạt hình thức (kết hợp hội trường và tọa đàm nhóm nhỏ), tạo không khí cởi mở, khuyến khích mọi người dân đều có thể phát biểu ý kiến.

Mỗi đại biểu Quốc hội cũng nên được bồi dưỡng kỹ năng lắng nghe, ghi nhận và phản hồi ý kiến cử tri một cách hiệu quả. Việc tập huấn kỹ năng giao tiếp, đối thoại cho đại biểu, nhất là đại biểu lần đầu trúng cử sẽ giúp họ tự tin, chuyên nghiệp hơn khi tiếp xúc Nhân dân.

Ba là, khắc phục tính hình thức, nâng cao tính thời sự của các cuộc tiếp xúc: Đối với các buổi tiếp xúc cử tri sau kỳ họp, nên điều chỉnh phương thức để tăng hiệu quả. Hiện nay, do khoảng cách thời gian từ lúc bế mạc kỳ họp đến buổi tiếp xúc rất ngắn (khoảng một tháng), nội dung phản ánh thường không có nhiều vấn đề mới, chủ yếu vẫn xoay quanh kết quả kỳ họp vừa qua. Do đó, có thể linh hoạt tổ chức tiếp xúc sau kỳ họp theo chuyên đề nếu xuất hiện vấn đề cấp bách, thay vì rập khuôn tổ chức đại trà sau mỗi kỳ họp mà nội dung trùng lặp.

Việc báo cáo kết quả kỳ họp tới cử tri có thể thực hiện thông qua văn bản hoặc phương tiện truyền thông, kết hợp với ứng dụng công nghệ (cổng thông tin điện tử của Đoàn đại biểu Quốc hội) để công khai báo cáo tổng hợp ý kiến cử tri một cách tự động, minh bạch. Như vậy vừa tiết kiệm thời gian cho đại biểu, vừa bảo đảm cử tri vẫn nắm được thông tin và có kênh giám sát quá trình giải quyết kiến nghị theo luật định. Mục tiêu là giảm thiểu tối đa các cuộc họp mang tính hình thức, tránh “bệnh hình thức” trong công tác dân nguyện, đồng thời dành nguồn lực cho những hoạt động tiếp xúc thực chất, đi vào vấn đề cử tri đang quan tâm.

Bốn là, tăng cường giám sát việc giải quyết kiến nghị và phối hợp chặt chẽ với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri chỉ bền chặt khi những kiến nghị chính đáng của Nhân dân được giải quyết thỏa đáng. Vì vậy, cần thiết lập cơ chế giám sát và phản hồi minh bạch, thường xuyên. Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh/thành phố nên định kỳ hằng quý yêu cầu UBND và các cơ quan chức năng địa phương báo cáo tiến độ giải quyết các kiến nghị cử tri thuộc thẩm quyền.

Tăng cường phối hợp giữa đại biểu Quốc hội với HĐND, UBND và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp trong việc theo dõi, đôn đốc xử lý kiến nghị, tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm. Đối với những kiến nghị phức tạp, kéo dài, đại biểu cần chủ động tái chất vấn hoặc đưa vào chương trình giám sát chuyên đề của Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Ủy ban Dân nguyện và Giám sát cũng nên có chế tài nhắc nhở, phê bình những Đoàn đại biểu Quốc hội hoặc cá nhân đại biểu chưa thực hiện đầy đủ việc tiếp xúc và báo cáo kiến nghị cử tri theo quy định. Làm tốt công tác giám sát và phản hồi sẽ nâng cao niềm tin của cử tri để người dân thấy tiếng nói của mình được tôn trọng và giải quyết, qua đó tích cực tham gia đóng góp ý kiến nhiều hơn.

Năm là, nâng cao năng lực, trách nhiệm và điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội: Yếu tố con người mang tính quyết định đối với hiệu quả gắn bó giữa đại biểu và cử tri. Do đó, cần tiếp tục nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, cả về trình độ, kỹ năng lẫn tính chuyên nghiệp.

Cần tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách (làm việc toàn thời gian) trong Quốc hội, phấn đấu đạt tỷ lệ xấp xỉ 40% hoặc hơn trong các khóa tới, nhằm bảo đảm đội ngũ đại biểu có đủ quỹ thời gian và sự tập trung cho công tác tiếp xúc cử tri cũng như các nhiệm vụ khác. Chú trọng bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng hoạt động nghị trường và kỹ năng tiếp xúc, dân vận cho đại biểu, đặc biệt là những người lần đầu trúng cử. Mỗi đại biểu Quốc hội cần nêu cao tinh thần “gương mẫu, đổi mới, sáng tạo, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”, coi việc giữ mối liên hệ thường xuyên với cử tri là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong suốt nhiệm kỳ.

Bên cạnh nỗ lực của đại biểu, cần quan tâm bảo đảm các điều kiện vật chất và hỗ trợ cần thiết để đại biểu thực hiện tốt vai trò cầu nối với dân. Nghiên cứu thiết lập văn phòng đại biểu Quốc hội tại địa phương với bộ phận tham mưu, giúp việc cho Đoàn đại biểu Quốc hội.

Hiện nay, khác với nhiều nước, đại biểu Quốc hội Việt Nam chưa có văn phòng riêng và nhân viên trợ lý riêng, điều này hạn chế khả năng đại biểu duy trì kênh liên lạc thường xuyên với cử tri. Do đó, có thể thí điểm bố trí cán bộ giúp việc cho đại biểu (theo chế độ kiêm nhiệm hoặc hợp đồng) để hỗ trợ tiếp nhận ý kiến, kiến nghị của cử tri khi đại biểu vắng mặt, đồng thời tham mưu xử lý các vấn đề dân nguyện một cách chuyên nghiệp. Về lâu dài, khi điều kiện cho phép, xem xét mô hình mỗi đại biểu (hoặc mỗi Đoàn đại biểu Quốc hội) có văn phòng đại diện tại khu vực bầu cử, tương tự như thông lệ quốc tế. Đây là nơi cử tri có thể trực tiếp đến phản ánh vấn đề bất kỳ khi nào, không phải đợi đến kỳ họp hay các buổi tiếp xúc định kỳ. Theo đó, ngân sách cần bố trí kinh phí thỏa đáng để vận hành các văn phòng này, hỗ trợ phương tiện liên lạc, thiết bị công nghệ và nhân lực.

Sáu là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và xây dựng “Quốc hội số” trong công tác dân nguyện. Trong kỷ nguyên chuyển đổi số, cần tận dụng các nền tảng trực tuyến để hỗ trợ cho mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội và cử tri. Quốc hội (khóa XV) đã và đang hướng tới mô hình “Quốc hội điện tử/Quốc hội số”, cho phép số hóa nhiều quy trình hoạt động. Theo đó, có thể thiết lập các diễn đàn trực tuyến, mạng xã hội, cổng thông tin tương tác để cử tri và đại biểu trao đổi thông tin thuận tiện hơn. Ví dụ, triển khai ứng dụng di động để cử tri gửi kiến nghị mọi lúc, mọi nơi; xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về ý kiến cử tri để phân tích, tổng hợp xu hướng dư luận phục vụ hoạt động giám sát, lập pháp. Bên cạnh đó, khuyến khích đại biểu Quốc hội chủ động sử dụng mạng xã hội một cách lành mạnh để tương tác với người dân, giải đáp thắc mắc và tiếp nhận góp ý.

Nhiều Quốc hội trên thế giới đã ứng dụng thành công trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) trong phân tích phản hồi của dân, cũng như tổ chức tham vấn công khai trên môi trường số. Những công cụ hiện đại này nếu được vận dụng phù hợp sẽ hỗ trợ đắc lực cho đại biểu Quốc hội Việt Nam trong việc lắng nghe tiếng nói Nhân dân rộng rãi hơn, đặc biệt là thế hệ trẻ – nhóm cử tri sử dụng internet, mạng xã hội thường xuyên. Tuy nhiên, đi đôi với ứng dụng công nghệ, cần có cơ chế kiểm soát thông tin, xử lý các ý kiến phản ánh sai sự thật hoặc lợi dụng diễn đàn để gây rối, bảo đảm môi trường trao đổi trực tuyến văn minh, xây dựng và hiệu quả.

4. Kết luận

Đổi mới và nâng cao hiệu quả mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri vừa là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vừa là nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng hoạt động của Quốc hội. Thực tiễn gần 80 năm phát triển của Quốc hội Việt Nam cho thấy, khi đại biểu gần dân, hiểu dân, trọng dân thì Quốc hội sẽ có sức mạnh, có trí tuệ tập thể để quyết định đúng đắn những vấn đề hệ trọng của đất nước.

Ngày nay, trước những đòi hỏi mới của sự nghiệp đổi mới và hội nhập, mối liên hệ đại biểu – cử tri càng phải được củng cố trên nền tảng tin cậy, công khai, đối thoại xây dựng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân và thúc đẩy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển mới. Quốc hội Việt Nam sẽ ngày càng xứng đáng với vị thế là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân – một Quốc hội dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, pháp quyền, gắn bó máu thịt với Nhân dân, đáp ứng trọn vẹn sự tin cậy và kỳ vọng của cử tri cả nước.

Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.
2. Quốc hội (2014). Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2025.
3. Thành lập Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/thanh-lap-uy-ban-dan-nguyen-va-giam-sat-cua-quoc-hoi-11925021908103747.htm
4. Hạ nghị sĩ Hoa Kỳ kết nối với cử tri thông qua văn phòng địa phương. https://daibieunhandan.vn/ha-nghi-si-hoa-ky-ket-noi-voi-cu-tri-thong-qua-van-phong-dia-phuong-10371088.html