Thượng tá Nguyễn Đức Biên
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Tháng 10/1947, trên đường cùng Trung ương Đảng trở lại chiến khu Việt Bắc để lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Đây là tác phẩm quan trọng có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Bài viết tập trung khái quát, luận giải quan điểm của Người về cách lãnh đạo; đồng thời, vận dụng trong nâng cao chất lượng lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng hiện nay.
Từ khóa: Chủ tịch Hồ Chí Minh; chất lượng lãnh đạo; tổ chức cơ sở đảng.
1. Đặt vấn đề
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới. Theo Người, để thực hiện được điều đó cần phải có cách thức, phương pháp, quy trình lãnh đạo đúng và phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, Người yêu cầu phải thường xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ và phát huy trí tuệ của quần chúng ở tất cả các khâu trong quá trình lãnh đạo của Đảng.
2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo
Thứ nhất, về quy trình lãnh đạo của Đảng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo đúng “Cố nhiên, không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh” mà là: “1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng,… 2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng,… 3. Phải tổ chức sự kiểm soát,…”1. Người đã chỉ ra, quy trình lãnh đạo của Đảng gồm 3 bước: một là, phải quyết định nội dung, chủ trương, đường lối lãnh đạo cho đúng, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của Nhân dân; hai là, phải triển khai, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối lãnh đạo bảo đảm hiệu quả, thiết thực; ba là, phải tổ chức kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chủ trương, đường lối lãnh đạo đó cho đúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các tổ chức đảng “Chẳng những phải lãnh đạo quần chúng mà lại phải học hỏi quần chúng”2. Theo Người, trong tất cả các khâu lãnh đạo của Đảng, phải thường xuyên đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng “một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng”3; phải học hỏi kinh nghiệm của dân chúng và nhất thiết phải có sự tham gia, giúp đỡ của dân chúng; nếu cách xa dân chúng, không có dân chúng giúp sức “cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”4. Từ đó, Người nhấn mạnh: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”5.
Người lập luận rằng, “dân chúng là người chịu đựng kết quả của sự lãnh đạo, vì vậy muốn quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng thì nhất thiết phải học hỏi, so sánh kinh nghiệm với dân chúng. Mặt khác, những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt, một khía cạnh của công việc, vì vậy sự trông thấy là có hạn. Trái lại, dân chúng lại trông thấy công việc nên sự trông thấy cũng có hạn và “muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại”6. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người lãnh đạo không nên kiêu ngạo mà phải luôn học dân chúng, hỏi dân chúng, hiểu dân chúng, lắng nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Tuy nhiên, Người lưu ý: “Học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng”7, không phải quần chúng nói cái gì cũng nghe mà phải biết khéo léo, chắt lọc, so sánh, xem xét, tiếp thu những ý kiến phù hợp.
Thứ hai, về cách thức lãnh đạo và việc chọn người, thay người trong lãnh đạo của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Bất kỳ công việc gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau đây: “Một là, liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng. Hai là, liên hợp người lãnh đạo với quần chúng”8. Liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng là bất kỳ công việc gì cũng đều phải có chính sách chung để động viên quần chúng. Song tuỳ từng điều kiện, hoàn cảnh, nhiệm vụ cụ thể mà lựa chọn một vài đơn vị, bộ phận; chuẩn bị cho họ chu đáo, kỹ lưỡng; cho họ làm trước, làm thử để rút kinh nghiệm, sau đó mới triển khai đồng loạt. Trong bộ phận làm trước, làm thử cần chọn ra những cán bộ kiểu mẫu có phẩm chất, năng lực tiêu biểu để giao cho họ phụ trách; đồng thời, người lãnh đạo phải tự mình chỉ đạo những người được chọn phụ trách đó, giúp họ giải quyết những vấn đề thực tế để rút kinh nghiệm; những người phụ trách lại tiếp tục làm theo cách đó đối với bộ phận của mình; đó là cách vừa lãnh đạo, vừa học tập.
Liên hợp người lãnh đạo với quần chúng là bất kỳ tổ chức nào, bất kỳ việc gì cũng phải có một số người hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo. Nhóm trung kiên đó phải được lựa chọn, thử thách trong công tác và đấu tranh của phong trào quần chúng, trong mối liên hệ mật thiết với quần chúng. Vì vậy, Người yêu cầu nhóm trung kiên này phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng và phải biết cách kết hợp chặt chẽ sự hăng hái của nhóm trung kiên với sự hăng hái của quần chúng, biết cách tiếp thu, phát triển, vận dụng ý kiến của quần chúng trong lãnh đạo. Đồng thời, Người nhắc nhở “cần phải luôn luôn cất nhắc những người hăng hái trong giai đoạn đó để thay thế cho những người cũ bị đào thải hoặc vì tài không xứng chức, hoặc hủ hoá”9.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, việc chọn người và thay người cũng là vấn đề quan trọng trong lãnh đạo. Theo Người, “những người mắc phải bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, không làm được việc, phải thải đi”10. Mặt khác, trong quá trình lãnh đạo của Đảng cần lưu ý hai hạng người: (1) Những người cậy mình là “công thần cách mạng”, rồi đâm ra ngang tàn, không giữ gìn kỷ luật, không thi hành nghị quyết của Đảng và của Chính phủ. Vì vậy, cần khép họ vào kỷ luật để chữa tính kiêu ngạo và thói quan liêu cho họ và để giữ vững kỷ luật. (2) Hạng người nói suông, những người này tuy thật thà, trung thành nhưng không có năng lực làm việc, chỉ biết nói suông, chỉ biết nói là nói nhưng không làm được việc thiết thực gì; những người như thế cũng không thể dùng vào công việc thực tế.
Thứ ba, về tổ chức kiểm soát cho đúng và khéo kiểm soát.
Theo Người, phải thường xuyên làm tốt công tác kiểm soát và kiểm soát thật khéo, coi đây là việc làm rất quan trọng trong quy trình lãnh đạo của Đảng, bởi vì Người cho rằng, kiểm soát khéo sẽ chống được bệnh quan liêu, bàn giấy, biết được các nghị quyết có được thi hành và thi hành đúng hay không hoặc biết được ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện; “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”11. Để kiểm soát có kết quả tốt, Người chỉ rõ phải có hai điều kiện: một là, việc kiểm soát phải được tiến hành thường xuyên, có nền nếp và thực hiện một cách hệ thống, đồng bộ từ trên xuống dưới; hai là, người đi kiểm soát phải là người có uy tín cao trong tập thể, có phẩm chất, trình độ, năng lực tốt, như thế mới chỉ ra được những ưu, khuyết điểm, mới làm cho người được kiểm soát nể phục.
Về cách kiểm soát, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cố nhiên, không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà chờ người ta báo cáo mà phải đi tận nơi, xem tận chỗ”12, muốn kiểm soát không chỉ thông qua báo cáo mà còn phải trực tiếp xuống tận nơi, xem xét cụ thể vấn đề tại cơ sở; có như vậy, mới biết được cán bộ, nhân viên tốt hay xấu; mới biết rõ ưu điểm, khuyết điểm của các cơ quan, của các mệnh lệnh và nghị quyết. Người chỉ ra hai cách kiểm soát cơ bản: một là, làm từ trên xuống, nghĩa là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ thuộc quyền; hai là, kiểm soát từ dưới lên, nghĩa là quần chúng và cán bộ cấp dưới kiểm soát những việc làm của người lãnh đạo, nhất là những sai lầm, khuyết điểm. Theo Người, việc kiểm soát phải được thực hành ráo riết, triệt để theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình và tự phê bình.
2. Vận dụng trong nâng cao chất lượng lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng hiện nay
Những năm gần đây, công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh ngày càng được đặc biệt coi trọng; các tổ chức cơ sở đảng tiếp tục được củng cố, kiện toàn, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu được nâng lên, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Tuy nhiên, “năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, nhất là việc tổ chức thực hiện nghị quyết và khả năng phát hiện, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo giải quyết các vấn đề phát sinh ở cơ sở”13; chậm đổi mới phương thức lãnh đạo; chất lượng lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở còn hạn chế; một số cấp ủy chưa nêu cao tinh thần, trách nhiệm, thiếu gương mẫu, thực hiện chưa nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; có nơi mất sức chiến đấu, để xảy ra tiêu cực, tham nhũng… làm giảm niềm tin của Nhân dân với Đảng.
Để nâng cao chất lượng lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng hiện nay cần vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo với các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
Một là, nâng cao chất lượng ban hành nghị quyết.
Ra nghị quyết là khâu đầu tiên trong quy trình lãnh đạo, có vai trò rất quan trọng, quyết định chất lượng lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng. Vì vậy, các tổ chức cơ sở đảng cần chuẩn bị tốt nội dung và tổ chức sinh hoạt bảo đảm chất lượng, hiệu quả. Theo đó, căn cứ nghị quyết cấp trên và tình hình nhiệm vụ được giao, cấp ủy cơ sở cần chuẩn bị tốt nội dung sinh hoạt theo hướng toàn diện, trọng tâm, trọng điểm, khái quát, ngắn gọn; đánh giá chính xác kết quả lãnh đạo kỳ trước, chỉ ra phương hướng nhiệm vụ lãnh đạo kỳ tới, nhất là tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị hoặc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đã chỉ ra.
Trong sinh hoạt ra nghị quyết, người chủ trì cần điều hành đúng nội dung, nguyên tắc, bảo đảm linh hoạt, phát huy tốt dân chủ, tạo bầu không khí thẳng thắn, cởi mở, tránh áp đặt ý kiến chủ quan; đề cao tinh thần dân chủ, tự phê bình và phê bình, khơi dậy và phát huy trí tuệ tập thể; khéo léo gợi mở, định hướng những vấn đề tập trung thảo luận; động viên, khuyến khích đảng viên phát biểu. Những vấn đề mới, khó phải tranh thủ xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên; tôn trọng, lắng nghe, tiếp thu cầu thị những ý kiến đóng góp, kể cả ý kiến trái chiều; bàn bạc kỹ lưỡng và quyết định theo đa số; phân công thực hiện nghị quyết chặt chẽ, khoa học.
Hai là, nâng cao chất lượng tổ chức thực hiện nghị quyết.
Tổ chức thực hiện nghị quyết là khâu quan trọng nhằm đưa nghị quyết đi vào thực tiễn cuộc sống, khẳng định sự đúng đắn và thực hiện thắng lợi các chủ trương, giải pháp đề ra. Theo đó, sau khi có nghị quyết, cần cụ thể hóa thành chương trình, kế hoạch và triển khai thực hiện bảo đảm nghiêm túc, hiệu quả. Đồng thời, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện nhiệm vụ cho các tổ chức, cá nhân. Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực, chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp, tác phong công tác, kinh nghiệm; phát huy tốt vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng trong thực hiện nhiệm vụ.
Cùng với đó, quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, bảo đảm môi trường, điều kiện làm việc thuận lợi cho cán bộ, đảng viên, quần chúng. Phát huy tốt dân chủ, trí tuệ tập thể; kết hợp chặt chẽ với thực hiện các phong trào thi đua, cuộc vận động tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện nhiệm vụ. Kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, trách nhiệm; kịp thời biểu dương, nhân rộng điển hình tiên tiến; chấn chỉnh, khắc phục hạn chế, khuyết điểm trong quá trình thực hiện; điều chỉnh, bổ sung các chủ trương, giải pháp lãnh đạo.
Ba là, phát huy tốt trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu trong thực hiện nghị quyết.
Người đứng đầu là người có trách nhiệm, quyền hạn và tầm ảnh hưởng cao nhất trong tập thể. Vì vậy, Đảng yêu cầu: “Thực hiện tốt các quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”14. Theo đó, người đứng đầu cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của mình; luôn tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, là trung tâm đoàn kết trong tập thể; có tác phong làm việc dân chủ, khách quan, dám nghĩ, dám nói, dám làm, nói đi đôi với làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung. Đánh giá đúng tình hình, đề xuất giúp cấp ủy những chủ trương, giải pháp lãnh đạo phù hợp với tình hình nhiệm vụ.
Đồng thời, cụ thể hóa thành kế hoạch, chương trình; phân công, giao nhiệm vụ cho các bộ phận, triển khai thực hiện khoa học, hiệu quả. Biết cách đánh giá, lựa chọn và khéo sử dụng cán bộ; tăng cường bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, phương pháp, kỹ năng, kinh nghiệm công tác cho cấp dưới. Thường xuyên sâu sát, bám nắm cơ sở, kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm; biểu dương, khen thưởng; chỉ đạo khắc phục kịp thời những hạn chế, khuyết điểm nảy sinh.
Bốn là, thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát là khâu quan trọng trong quy trình lãnh đạo của Đảng, không chỉ giúp tổ chức đảng, đảng viên phát huy được những ưu điểm mà còn chủ động phát hiện, đấu tranh với các hạn chế, khuyết điểm có thể xảy ra trong thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, Đảng ta yêu cầu: “Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng”15.
Cấp ủy, tổ chức đảng cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Xây dựng, thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát bảo đảm chất lượng, đúng nguyên tắc, quy trình, khách quan, dân chủ. Chú trọng bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm, uy tín cho cán bộ kiểm tra, giám sát. Nâng cao khả năng dự báo, phát hiện vi phạm; kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra, giám sát theo chuyên đề, kiểm tra đột xuất, kiểm tra có dấu hiệu vi phạm; xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng với phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng; vai trò giám sát của báo chí, cấp ủy, chính quyền, Nhân dân địa phương nơi đảng viên công tác, cư trú.
3. Kết luận
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đến nay vẫn còn nguyên giá trị; là kim chỉ nam định hướng để Đảng ta tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, góp phần xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng. Vì vậy, các tổ chức cơ sở đảng cần nghiên cứu, vận dụng linh hoạt, sáng tạo những quan điểm của Người trong xác định chủ trương, đường lối lãnh đạo; triển khai tổ chức thực hiện, lựa chọn và sử dụng cán bộ; tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong tình hình hiện nay.
Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 325, 325, 325, 326, 330, 326, 333, 328, 330, 326, 327, 327.
13, 14, 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 189, 237 – 238, 245.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước trong tác phẩm “Dân vận” và sự vận dụng của Đảng hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/10/02/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-dang-va-chinh-quyen-nha-nuoc-trong-tac-pham-dan-van-va-su-van-dung-cua-dang-hien-nay/
4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đảng bộ cơ sở các đơn vị quản lý học viên ở Học viện Hậu cần. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/02/28/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-xay-dung-dang-bo-co-so-cac-don-vi-quan-ly-hoc-vien-o-hoc-vien-hau-can/



