Dấu ấn chính sách của Singapore đối với Hoa Kỳ giai đoạn 2004 – 2024

ThS. Trịnh Hải Tuyến
Viện Nghiên cứu châu Á – Thái Bình Dương

(Quanlynhanuoc.vn) – Từ năm 1966 đến nay, Hoa Kỳ là cường quốc đóng vai trò then chốt trong việc bảo đảm an ninh, mang lại sự thịnh vượng cho Singapore. Bước sang thế kỷ XXI, để vượt qua những chuyển đổi và biến động trong hệ thống quốc tế, khu vực, Singapore tiếp tục theo đuổi một chính sách nhất quán với Hoa Kỳ, ủng hộ sự hiện diện tích cực của Hoa Kỳ tại châu Á – Thái Bình Dương, thắt chặt quan hệ kinh tế, chính trị, đối ngoại, quốc phòng – an ninh,… nhằm bảo đảm cho sự ổn định và phát triển quốc gia trong một trật tự có luật lệ. Bài viết tập trung tìm hiểu, phân tích mục tiêu, nguyên tắc, một số nội dung chính và thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của Singapore đối với Hoa Kỳ giai đoạn từ 2004 – 202), từ đó, nêu ra một số nhận xét, đánh giá và hàm ý cho Việt Nam.

Từ khoá: Chính sách nhất quán, châu Á – Thái Bình Dương, Singapore, Hoa Kỳ, Lý Hiển Long.

1. Đặt vấn đề

Singapore và Hoa Kỳ, mặc dù có sự bất cân xứng về quy mô kinh tế, quân sự, ngoại giao và sự khác biệt về hệ thống chính trị, song từ năm 1966, hai nước đã thiết lập và duy trì mối quan hệ bền chặt và sâu rộng dựa trên cơ sở triệt để tận dụng thế mạnh của nhau để đạt được mục tiêu chiến lược quốc gia cũng như lợi ích song trùng.

Đối với Hoa Kỳ, về mặt kinh tế với vị trí địa chiến lược nằm giữa Trung Quốc và Ấn Độ, giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Singapore giữ vai trò quan trọng trong chính sách thương mại và đầu tư của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á. Về mặt chính trị, ngoại giao, Singapore – “đối tác kiên định nhất của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á” cũng là quốc gia thành viên “đầu tàu” có nhiều sáng kiến mang tính định hướng cho sự phát triển của ASEAN, đã trở thành “cầu nối” giúp Hoa Kỳ mở rộng tầm ảnh hưởng tại khu vực và duy trì vị thế siêu cường, kiềm chế sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc. Về mặt quốc phòng, an ninh, Singapore là đối tác “tốt, đáng tin cậy” của Hoa Kỳ và một trong những đối tác “có nhiều cam kết nhất với Hoa Kỳ trong khu vực”1; là “điểm tựa” để Hoa Kỳ triển khai sức mạnh quân sự tại Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, đồng thời, giữ được những lợi ích chiến lược ở Biển Đông, eo biển Malacca và biển Andaman. Mặt khác, với vai trò là trung tâm tài chính toàn cầu, Singapore trở thành đối tác quan trọng của Hoa Kỳ trong nỗ lực chống tham nhũng và tài trợ khủng bố trên thế giới2.

Đối với Singapore, ngay từ khi lập quốc (1965), chính giới Singapore đã tin tưởng rằng, Hoa Kỳ là cường quốc đóng vai trò then chốt trong việc bảo đảm an ninh, mang lại sự thịnh vượng cho đảo quốc này. Tiếp nối thế hệ lãnh đạo trước, Chính phủ Lý Hiển Long (2004 – 2024) tiếp tục theo đuổi các chính sách ngoại giao để bảo đảm “sự hiện diện liên tục của Mỹ” trong khu vực dựa trên nguyên tắc nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia.

2. Mục tiêu, nguyên tắc chính sách đối ngoại của Singapore đối với Hoa Kỳ giai đoạn 2004 – 2024

Thứ nhất, về mục tiêu.

Dưới góc nhìn chiến lược của Chính phủ Singapore, “Hoa Kỳ có những lợi ích chính đáng, lâu dài ở châu Á và đóng một vai trò mà không quốc gia nào khác có thể làm được. Điều này không chỉ vì sức mạnh quân sự hay kinh tế, mà còn vì những lý do lịch sử. Trong 60 năm kể từ khi Thế chiến II kết thúc, sự hiện diện của Hoa Kỳ đã tạo ra một môi trường hòa bình, cho phép khu vực phát triển thịnh vượng. Đây là lý do tại sao nhiều quốc gia châu Á – Thái Bình Dương hy vọng Hoa Kỳ tiếp tục đóng góp cho hòa bình và ổn định khu vực”3. Vì vậy, trong giai đoạn 2004 – 2024, cùng với chính sách ngoại giao lấy quốc gia làm trung tâm, chính sách đối ngoại của Singapore đối với Hoa Kỳ hướng đến mục tiêu trọng tâm: “Giữ cho Hoa Kỳ cam kết và dẫn đầu về chính trị, kinh tế và quân sự trong khu vực”4.

Thứ hai, về nguyên tắc.

Về cơ bản, những nguyên tắc trong chính sách của Singapore đối với Hoa Kỳ phản ánh 5 nguyên tắc chính định hướng đường lối đối ngoại của Singapore, gồm: (1) Singapore phải thành công, phải năng động; (2) Phải duy trì khả năng đưa ra các quyết định độc lập, có chủ quyền dựa trên lợi ích quốc gia của mình; (3) Singapore đặt mục tiêu trở thành bạn của tất cả mọi người; (4) Thúc đẩy và tin tưởng vào một trật tự toàn cầu, dựa trên luật lệ với luật pháp và chuẩn mực quốc tế và (5) Singapore phải là một đối tác đáng tin cậy, đáng tin cậy và nhất quán5.

Mục tiêu và các nguyên tắc nêu trên là kim chỉ nam, định hướng cho các chính sách của Singapore với các đối tác và tổ chức khác nhau trên thế giới, trong đó có cả Hoa Kỳ.

3. Một số nội dung chính và thực tiễn triển khai chính sách của Singapore đối với Hoa Kỳ đoạn 2004 – 2024

 Một là, về chính trị – ngoại giao.

Chính trị và ngoại giao là công cụ tiên quyết trong mối quan hệ giữa các quốc gia. Với Singapore, niềm tin chính trị giữa chính quyền Singapore và Hoa Kỳ càng quan trọng hơn cả, vì thông qua việc tham gia vào các thể chế kinh tế và chính trị đa phương do Hoa Kỳ dẫn đầu và ký kết các hiệp định song phương với Mỹ sẽ giúp nước này  tăng cường lợi ích, xây dựng uy tín quốc gia và tạo vị thế ngoại giao trong khu vực và trên toàn cầu. Theo đó, các nội dung chính trong hoạt động chính trị, bao gồm:

(1) Tăng cường hợp tác qua các hiệp định song phương.

Dưới thời Thủ tướng Lý Hiển Long (2004 – 2024), Singapore thường xuyên thực hiện các chuyến thăm cấp cao và ký kết các hiệp định song phương có giá trị pháp lý, định hình khuôn khổ hợp tác hai nước, tiêu biểu như: Hiệp định Thương mại Tự do Mỹ Singapore (USSFTA)6 bắt đầu có hiệu lực năm 2004, là một thỏa thuận thương mại và đầu tư có phạm vi rộng, tiêu chuẩn cao với các biện pháp bảo hộ đa dạng. Các điều khoản chính của USSFTA, bao gồm các điều khoản liên quan đến Quy tắc xuất xứ (RoO), các điều khoản thương mại điện tử và quyền sở hữu trí tuệ (IP) nâng cao, đặt nền móng cho mọi hoạt động thương mại và đầu tư giữa Hoa Kỳ và Singapore kể từ năm 20047.

Tiếp đó là Thoả thuận khung chiến lược (Strategic Framework Agreement-SFA) ký năm 2005, nêu rõ các nguyên tắc của quan hệ đối tác quốc phòng Hoa Kỳ – Singapore và đóng vai trò là khuôn khổ chính thức để kết nối nhiều lĩnh vực hợp tác quốc phòng và an ninh chủ chốt, như: chống khủng bố, chống phổ biến vũ khí hạt nhân, tập trận và huấn luyện quân sự chung, đối thoại chính sách và công nghệ quốc phòng. Đồng thời, SFA công nhận vai trò quan trọng của Singapore là Đối tác hợp tác an ninh chính của Hoa Kỳ8.

Ngày 07/10/2021, Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ và Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp Singapore đã ký lộ trình chiến lược “Quan hệ Đối tác Hoa Kỳ – Singapore vì tăng trưởng và đổi mới” (U.S. – Singapore Partnership for Growth and Innovation), củng cố hợp tác thương mại và đầu tư trong các lĩnh vực mới và hướng tới tương lai, bắt đầu với (1) Nền kinh tế số và thành phố thông minh; (2) Sản xuất và chuỗi cung ứng tiên tiến; (3) Năng lượng sạch và công nghệ môi trường; (4) Chăm sóc sức khỏe9.

Là một phần trong nỗ lực chống biến đổi khí hậu, Quan hệ Đối tác khí hậu Hoa Kỳ – Singapore (U.S. – Singapore Climate Partnership) ký tháng 8/2021 và nâng cấp vào năm 2023 nhằm tăng cường nỗ lực trong năm lĩnh vực: chuyển đổi năng lượng khu vực; công nghệ và giải pháp phát thải thấp và bằng không; giải pháp dựa trên thiên nhiên và thị trường carbon; khử carbon và khả năng phục hồi đô thị; xây dựng năng lực10.

Với nhu cầu tăng cường hợp tác trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tiên tiến, tháng 10/2023, Đối thoại Công nghệ trọng yếu và mới nổi Hoa Kỳ Singapore (U.S. – Singapore Critical and Emerging Technology Dialogue – CET) được khởi động. CET là nền tảng để Singapore và Hoa Kỳ tăng cường hợp tác trong 6 lĩnh vực trọng tâm chính liên quan công nghệ cao và mới nổi: AI, kinh tế số và quản trị dữ liệu, công nghệ sinh học, cơ sở hạ tầng trọng yếu và chuỗi cung ứng công nghệ, đổi mới quốc phòng, khoa học và công nghệ thông tin lượng tử11.

Tháng 5/2024, Singapore và Hoa Kỳ đã ký Biên bản ghi nhớ về Hợp tác đổi mới quốc phòng (MoU for Defence Innovation Cooperation) nhằm tăng cường hợp tác song phương trong áp dụng và mở rộng các công nghệ mới nổi và công nghệ sử dụng kép khi giải quyết các thách thức chung và xác định các lĩnh vực hợp tác ưu tiên gồm an ninh hàng hải và hệ thống chống máy bay không người lái trên tàu và khả năng phục hồi nhiễu điện từ12.

(2) Tăng cường hợp tác qua các hiệp định trên bình diện đa phương.

Hai hiệp định tiêu biểu và liên quan nhất phải kể đến: Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP, 4-P) do Singapore khởi xướng. Từ năm 2008 – 2016, TPP được coi là sáng kiến thương mại chủ chốt giữa Hoa Kỳ và Singapore, tuy nhiên, đến năm 2017, Hoa Kỳ đã rút khỏi hiệp định này. Đến tháng 5/2022, Singapore và Hoa Kỳ đã cùng 12 đối tác khác khởi động Khung kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương vì sự thịnh vượng (IPEF), cung cấp một nền tảng cho các quốc gia hợp tác để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế kiên cường, bền vững và toàn diện; đồng thời, nhằm mục đích đóng góp vào sự hợp tác, ổn định và thịnh vượng trong khu vực13.

Hai là, về quốc phòng – an ninh.

Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm sự tồn vong và hưng thịnh của đất nước, an ninh được coi là một công cụ chiến lược cực kỳ quan trọng của Singapore. Đây cũng là cơ sở, là xuất phát điểm cho quan hệ Singapore – Hoa Kỳ trong quá khứ, được củng cố và mở rộng đến hiện nay. Một số nội dung chính và thực tiễn triển khai các chính sách này, gồm:

(1) Tổ chức các cơ chế đối thoại quốc phòng cấp cao hằng năm Singapore và Hoa Kỳ có nhiều cơ chế đối thoại quốc phòng nhằm trao đổi về các hoạt động và đào tạo thường xuyên giữa quân đội Singapore và Hoa Kỳ, như: Đối thoại về Chính sách an ninh chiến lược Singapore – Hoa Kỳ (Singapore – US Strategic Security Policy Dialogue-SSPD), các hội đàm thường niên giữa Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ và Singapore (The Singapore Army – U.S. Army Staff Talks), Đối thoại Đối tác Hoa Kỳ – Singapore (US – Singapore Strategic Partnership Dialogue- SPD)…

(2) Lực lượng vũ trang Singapore và Hoa Kỳ tham gia đào tạo, huấn luyện và diễn tập chung trong khuôn khổ song phương và đa phương

 Về đào tạo, huấn luyện: theo một số các thoả thuận về đào tạo và huấn luyện lực lượng vũ trang Singapore, hơn 1.000 quân nhân Singapore tham gia huấn luyện, diễn tập và đào tạo quân sự chuyên nghiệp tại Hoa Kỳ, tại các địa điểm như căn cứ không quân Luke (AFB), Arizona, và căn cứ không quân Mountain Home, Idaho. Singapore đã vận hành các đội máy bay chiến đấu tiên tiến tại lục địa Hoa Kỳ trong 27 năm qua14.

 Về tập trận chung: Singapore thường xuyên tham gia các cuộc tập trận quân sự song phương trên các lĩnh vực, như: Tác chiến đô thị tích hợp từ năm 1980 (gồm cuộc tập trận song phương cấp lữ đoàn Tiger Balm (từ năm 1981); cuộc tập trận Lightning Strike bắt đầu vào năm 1996 giữa hải quân (gồm CARAT được thực hiện từ năm 1995; Pacific Griffin  bắt đầu vào năm 2017); và giữa không quân (với loạt diễn tập thường niên Commando Sling bắt đầu vào năm 1990. Singapore cũng là quốc gia Thái Bình Dương duy nhất tổ chức các cuộc tập trận huấn luyện đơn phương hai năm một lần tại Hoa Kỳ (cuộc tập trận Forging Sabre)15.

Ngoài các cuộc tập trận song phương, Singapore và Hoa Kỳ còn tham gia các cuộc tập trận quân sự đa quốc gia, chẳng hạn, như: Cope Tiger, Cobra Gold, RIMPAC…16.

Ba là, về kinh tế.

Với “mẫu số chung” về chủ nghĩa tư bản thị trường và thương mại tự do, kinh tế trở thành công cụ “đắc lực” trong xây dựng quan hệ đối tác Singapore – Hoa Kỳ. Một số nội dung chính sách kinh tế đối ngoại chính được Singapore triển khai trên thực tế gồm: 

(1) Thúc đẩy hợp tác thương mại song phương. Với sự hỗ trợ của USSFTA 2004, quan hệ kinh tế – thương mại song phương ngày càng mở rộng và phát triển mạnh mẽ.

Kể từ năm 2004, kim ngạch thương mại Hoa Kỳ – Singapore đã tăng gần gấp 3 lần17: từ 83 tỷ USD lên 207 tỷ USD vào năm 2021. Năm 2023, tổng kim ngạch thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa Hoa Kỳ và Singapore đạt hơn 131 tỷ USD18. Trong đó, tổng kim ngạch thương mại hàng hóa Hoa Kỳ – Singapore đạt hơn 83 tỷ USD. Với Singapore là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ 11 của Hoa Kỳ, còn Hoa Kỳ vẫn là nước nhập khẩu hàng hóa lớn thứ 3 của Singapore. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Singapore sang Hoa Kỳ, bao gồm: thiết bị điện, điện tử (13,17 tỷ USD), máy móc, lò phản ứng hạt nhân, nồi hơi (9,38 tỷ USD), dụng cụ quang học, thiết bị y tế (5,62 tỷ USD)19… Trong khi đó, các mặt hàng Singapore nhập từ Hoa Kỳ, gồm máy móc, lò phản ứng hạt nhân, nồi hơi (18,24 tỷ USD), nhiên liệu khoáng sản, dầu, sản phẩm chưng cất (8,76 tỷ USD), Máy bay, tàu vũ trụ (7,74 tỷ USD)20… Theo nghiên cứu của Viện Cạnh tranh châu Á, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm sản xuất tiên tiến và dịch vụ chuyên nghiệp của Hoa Kỳ sang Singapore đã tăng gấp 5 lần kể từ khi USSFTA có hiệu lực. Những mặt hàng xuất khẩu này đã tạo ra hơn nửa triệu việc làm tại Hoa Kỳ21 trong giai đoạn 2000 – 2019.

Năm 2023, Hoa Kỳ tiếp tục là đối tác nhập khẩu dịch vụ lớn nhất của Singapore với tổng kim ngạch thanh toán đạt hơn 48 tỷ USD. Xuất khẩu dịch vụ của Hoa Kỳ sang Singapore đạt mức cao nhất mọi thời đại, là 37,3 tỷ USD vào năm này22.

(2) Tăng cường đầu tư song phương.  USSFTA đã đẩy nhanh các khoản đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Singapore. Singapore là quốc gia nhận được nhiều đầu tư nhất từ ​​ Hoa Kỳ tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và đứng thứ 7 trên toàn thế giới. Đầu tư của Hoa Kỳ vào Singapore lớn hơn tổng đầu tư của Trung Quốc đại lục, Nhật Bản và Hàn Quốc cộng lại, với gần 6.000 công ty Hoa Kỳ hiện đang có mặt tại Singapore23. Năm 2022, vốn FDI Mỹ vào Singapore đạt khoảng 309,4 tỷ USD24 thông qua hình thức đầu tư mới (GI) và sáp nhập và mua lại (M&A), trong đó, các dự án GI của Hoa Kỳ chiếm khoảng 75% tổng vốn FDI tại Singapore, tỷ lệ cao nhất trong số tất cả các quốc gia25 giai đoạn từ năm 2003 – 2024, tập trung trong các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao và các hoạt động R&D lớn, như: sản xuất, dịch vụ chuyên nghiệp và hành chính, thông tin và truyền thông, vận tải và lưu trữ…

Ở chiều ngược lại, Singapore là nhà đầu tư châu Á lớn thứ 3 tại Hoa Kỳ. Có khoảng 200 công ty Singapore tại 40 tiểu bang26. Đầu tư của Singapore vào Hoa Kỳ chủ yếu dưới hình thức M&A. Trong đó, ngành sản xuất, thông tin và truyền thông, dịch vụ chuyên nghiệp và hành chính, bất động sản và tiện ích,… là những lĩnh vực các công ty Singapore ưu tiên mua lại để tiếp cận ngay với cơ sở hạ tầng, công nghệ và vị thế thị trường đã được thiết lập thay vì xây dựng từ đầu27.

Nhìn chung các chính sách toàn diện nêu trên giúp Singapore đã thành công trong việc giữ được niềm tin chiến lược với Hoa Kỳ, đồng thời, duy trì vị thế trong khu vực. Việc Singapore đóng vai trò trung gian trong các sáng kiến đa phương mà Hoa Kỳ tham gia như IPEF, hỗ trợ các sáng kiến của Washington trong khuôn khổ ASEAN và EAS,… vừa thể hiện mức độ tin cậy cao giữa hai nước vừa giúp Singapore duy trì tiếng nói độc lập trong ASEAN.

Singapore đã “giữ chân” và giúp Hoa Kỳ duy trì hiện diện quân sự tại Singapore và khu vực. Điều này không chỉ giúp Singapore nâng cao năng lực quốc phòng, thông qua việc tiếp cận công nghệ quân sự hiện đại và chương trình huấn luyện tiên tiến mà còn bảo vệ tự do hàng hải ở eo Malacca, mang lại lợi ích trực tiếp cho nền kinh tế định hướng xuất khẩu của quốc đảo này.

Singapore đã tận dụng cấu trúc Pax Americana để bảo vệ an ninh và phát triển kinh tế. Hoa Kỳ là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Singapore, tập trung trong các lĩnh vực tài chính, năng lượng, công nghệ thông tin và sản xuất công nghiệp cao. Nhờ USSFTA, Singapore trở thành trung tâm trung chuyển của dòng vốn và công nghệ Mỹ vào khu vực Đông Nam Á, qua đó củng cố vị thế quốc tế như một hub tài chính và đổi mới sáng tạo toàn cầu.

Tuy vậy, trong thực tiễn triển khai chính sách, Singapore vẫn gặp một số khó khăn, hạn chế trong quan hệ song phương, như: Trong quan hệ Singapore – Hoa Kỳ, Chính phủ Singapore luôn bày tỏ mong muốn có sự hiện diện mạnh mẽ của Hoa Kỳ trong khu vực, do Washington không phải là bên tham gia bất kỳ tranh chấp lãnh thổ nào và khó có thể can thiệp vào các vấn đề nhạy cảm liên sắc tộc trong khu vực. Song, những trải nghiệm với “sự thất thường”, bất định rõ ràng của Hoa Kỳ cũng làm gia tăng mối lo ngại ở Singapore về tính nhất quán và cam kết của Washington đối với Đông Nam Á, nhất là dưới thời của chính quyền Trump 1.0, khi chủ nghĩa bảo hộ xen kẽ với các chính sách tập trung vào chủ nghĩa khủng bố hoặc cạnh tranh, đối đầu với Trung Quốc.

Trong lĩnh vực kinh tế, Singapore muốn hội nhập sâu hơn với Hoa Kỳ bằng các chính sách thương mại và đầu tư thông qua USSFTA và TPP bao gồm Hoa Kỳ sẽ cho phép Singapore tiếp cận nhiều hơn với vốn, quỹ và công nghệ của siêu cường này, song việc chính quyền Obama không thể thuyết phục Thượng viện Mỹ phê chuẩn TPP và việc Hoa Kỳ rút lui sau đó dưới thời chính quyền Trump – chưa kể đến những cáo buộc rằng Singapore là nước thao túng tiền tệ – cũng là một trở ngại trong quan hệ song phương. 

Thêm vào đó, với mức độ và chiều sâu hợp tác an ninh, luôn tồn tại một số trở ngại do bất đồng quan điểm. Singapore từng bị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cáo buộc là áp dụng cách tiếp cận không nhất quán, mang tính giao dịch và có chọn lọc hợp tác phụ thuộc vào vấn đề trong hợp tác chống khủng bố28, Singapore cũng không tránh khỏi việc Bộ Ngoại giao thường xuyên trích dẫn các cáo buộc vi phạm nhân quyền trong các báo cáo quốc gia hằng năm.

Dù vậy, những trở ngại nêu trên đều không phải là những mâu thuẫn mang tính chiến lược mà chỉ là những bước đệm trong một mối quan hệ bền vững và lâu dài. Singapore vẫn dành cho siêu cường này nhiều thiện chí đối với sự hiện diện chính trị, kinh tế, an ninh của Hoa Kỳ trong khu vực và đây là cơ sở để Singapore điều hướng chính sách và quan hệ với Hoa Kỳ trong tương lai.

3. Hàm ý chính sách cho Việt Nam

Các chính sách đối ngoại của Singapore đối với Hoa Kỳ trong giai đoạn 2004 -2024 đã giúp nước này từ một đối tác nhỏ mang tính phụ thuộc vươn lên thành đối tác chiến lược của Hoa Kỳ. Tìm hiểu kinh nghiệm của Singapore giúp các quốc gia hiểu hơn về  tầm quan trọng của sự linh hoạt, cân bằng và tầm nhìn xa trong việc định hướng chiến lược ngoại giao một môi trường toàn cầu bất ổn và khó lường. Đối với Việt Nam, đó có thể là những hàm ý về việc luôn kiên định giữ lập trường và nguyên tắc ngoại giao, về phương thức ngoại giao trung lập, không liên kết quân sự, không chọn bên, cụ thể như sau:

Một là, luôn kiên định giữ lập trường và nguyên tắc ngoại giao.

Dù đặc điểm quan hệ giữa Singapore với là bất cân xứng về quy mô, về vị thế,… song Singapore vẫn được Chính phủ Hoa Kỳ nhìn nhận như một điểm tựa ổn định và đáng tin cậy nhất tại Đông Nam Á. Nguyên nhân tiên quyết là do Singapore luôn “kiên định lập trường và bảo vệ mạnh mẽ các nguyên tắc cơ bản; không mơ hồ về lập trường của mình; chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều phải được tôn trọng”. Những nguyên tắc này có ý nghĩa sống còn đối với mọi quốc gia, nhưng đặc biệt quan trọng đối với một quốc gia nhỏ như Singapore29.

Điều này có ý nghĩa đối với Việt Nam, bởi giống như Singapore, Việt Nam là một nước nhỏ trong khu vực và trên thế giới và là đối tác chiến lược toàn diện của Hoa Kỳ. Trong quá trình thực thi các hoạt động đối ngoại và ngoại giao, Việt Nam đã và sẽ gặp những thách thức không nhỏ hoặc sức ép ngoại giao, kinh tế… từ một/nhiều bên do bất đồng quan điểm, bất đồng lợi ích quốc gia. Do vậy, cần giữ vững các nguyên tắc cơ bản “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi”30 lấy đàm phán ngoại giao làm biện pháp đầu tiên và đối ngoại quốc phòng là biện pháp sau cùng để nền ngoại giao của Việt Nam không chỉ trưởng thành mà còn tăng độ tin cậy chính trị trên diễn đàn khu vực và quốc tế.

Thứ hai, ngoại giao trung lập, không liên kết quân sự, không chọn bên.

Trước tình hình thế giới đang có nhiều diễn biến khó lường, khó đoán định, giống như Singapore, Việt Nam kiên định theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, và không chọn bên để tránh rơi vào cuộc đối đầu chiến lược do các nước lớn tạo ra, Việt Nam không thuộc hệ thống đồng minh, đối tác trục – nan hoa của Hoa Kỳ. Đồng thời, trong tình hình hiện nay, Liên Hợp quốc và các cơ quan liên quan đang có những bất cập nội tại, song Việt Nam vẫn cần nghiêm túc tuân thủ các quy định và quyết định của UN để bảo đảm tính chính danh và hợp pháp của Việt Nam trong một trật tự thế giới tuân theo luật lệ quốc tế.

4. Kết luận

Đặc điểm quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ là bất cân xứng về quy mô, về vị thế,… Hoa Kỳ là siêu cường số 1, định ra luật và cán cân quyền lực trên toàn thế giới, trong khi đó, Singapore chỉ là “một dấu chấm đỏ” trên bản đồ thế giới. Singapore đã dựa các giá trị và lợi ích chiến lược song trùng về an ninh, kinh tế với Hoa Kỳ để theo đuổi một chính sách nhất quán với Hoa Kỳ, ủng hộ sự hiện diện tích cực của Hoa Kỳ tại châu Á – Thái Bình Dương, thắt chặt quan hệ kinh tế, chính trị – đối ngoạị, quốc phòng, an ninh… nhằm bảo đảm cho Singapore ổn định và phát triển trong một trật tự có luật lệ và thương mại tự do và giúp Hoa Kỳ duy trì vai trò lãnh đạo tại châu Á – Thái Bình Dương. Kết quả là, quan hệ Singapore – Hoa Kỳ đã phát triển toàn diện, mang tính đối tác chiến lược thực chất, trở thành mô hình hợp tác mẫu mực giữa một quốc gia nhỏ và cường quốc toàn cầu, dựa trên nguyên tắc thực dụng, linh hoạt và cùng hội nhập vì lợi ích chung.

Chú thích:
1. Adelman D. I. (2012). The US-Singapore Strategic Partnership: Bilateral Relations Move Up a Weight Class. The Ambassadors REVIEW, tr.14.
2, 16 . Trịnh Hải Tuyến (2025). Milestone in Singapore-U.S Defence cooperation in the early 21st century. Tạp chí Quan hệ quốc phòng,  quý III/2025, tr.100 – 101.
3. PM Lee Hsien Loong (2012). PM Lee Hsien Loong at the Central Party School. https://www.pmo.gov.sg/newsroom/speech-prime-minister-lee-hsien-loong-central-party-school-chinese/.
4. Evelyn GOH, Wee-Kiat Lim (2023). Strategic Diplomacy: The Singapore Case, Country Report for the Project trong Strategic Diplomacy for 21st Century Defence and Statecraft. The Australian National University, Canberra, Australia, tr. 16.
5. MFA (2018). MFA Press Release: Speech By Minister For Foreign Affairs Dr Vivian Balakrishnan During The Committee Of Supply Debate, 1 March 2018. https://www.mfa.gov.sg/Newsroom/Press-Statements-Transcripts-and-Photos/2018/03/Min-COS-2018-Speech.
6. Office of the U.S Trade Representative (2004). FTA Singapore. https://ustr.gov/trade-agreements/free-trade-agreements/singapore-fta/final-text.
7. Keegan Goh, Ingrid Oo, Tan Ding Rui (2025). A Tale of Two Economies: The United States-Singapore Trade Story. https://www.maju.sg/post/a-tale-of-two-economies-the-united-states-singapore-trade-story.
8. MINDEF (2005). Factsheet – The Strategic Framework Agreement.  https://www.nas.gov.sg/archivesonline/data/pdfdoc/MINDEF_20050712001/MINDEF_20050712003.pdf.
9. MTI (2021). About US-Singapore Partnership for Growth and Innovation (PGI). https://www.mti.gov.sg/Partnerships/PGI.
10.  U.S. Embassy Singapore (2023). Strengthening the United States-Singapore Climate Partnership. https://sg.usembassy.gov/strengthening-the-united-states-singapore-climate-partnership/.
11. The White House (2023). U.S.-Singapore Critical and Emerging Technology Dialogue: Joint Vision Statement.  https://bidenwhitehouse.archives.gov/briefing-room/statements-releases/2023/10/12/u-s-singapore-critical-and-emerging-technology-dialogue-joint-vision-statement/.
12. Defense Innovation Unit (2024). U.S. and Singapore Sign Defense Innovation Cooperation Memorandum of Understanding. https://www.diu.mil/latest/u-s-and-singapore-sign-defense-innovation-cooperation-memorandum-of
13. MTI (2023). Public Consultation on the Indo-Pacific Economic Framework. https://www.mti.gov.sg/Newsroom/Public-Consultations/Past-Consultations/Indo-Pacific-Economic-Framework-Stakeholder-Listening-Session.
14. U.S Department of State (2025). U.S. Security Cooperation With Singapore. https://www.state.gov/u-s-security-cooperation-with-singapore/.
15. U.S. Department of State (2019). U.S. Security Cooperation With Singapore. https://2017-2021.state.gov/u-s-security-cooperation-with-singapore/#:~:text=In%20addition%2C%20the%20Republic%20of,States%20(Exercise%20Forging%20Sabre).
17. AmChamSingapore (2024). Commemorating 20 years of the U.S- Singapore Free Trade Agreement. The American Chamber of Commerce in Singapore.
18, 22.  AmChamSingapore (2024). The American Business Presence in Singapore: 2023 Facts and Figures. The American Chamber of Commerce in Singapore, tr.2.
19, 20. Tradingeconomics (2023). Singapore Exports from United States. https://tradingeconomics.com/singapore/exports/united-states#:~:text=Login,2023 
21. Jesslene Lee, Paul Cheung (2025). The lasting impact of FTAs amid global trade shocks. https://www.businesstimes.com.sg/opinion-features/lasting-impact-ftas-amid-global-trade-shocks.
23. Gan Kim Yong (2024). US – Singapore Free Trade Agreement 20th Anniversary. https://www.linkedin.com/pulse/us-singapore-free-trade-agreement-20th-anniversary-gan-kim-yong-rc6fc.
24. U.S. Embassy Singapore (2024). Trade and Investment. https://sg.usembassy.gov/wp-content/uploads/sites/20/2024/05/Trade-and-Investment-COMPLETED-2.pdf.
25, 27. Jingting Liu, Weilin Lu (2025). “Assessing Economic Partnership of US and Singapore Under USSFTA: The Role of FDI”, Research Paper #03-2025. Asia Competitiveness Institute Research Paper Series, tr. 22, 42.
26. MFA (2025), Minister for Foreign Affairs Dr Vivian Balakrishnan’s Oral Reply to Parliamentary Question on Singapore-US relations. https://www.mfa.gov.sg/Newsroom/Press-Statements-Transcripts-and-Photos/2025/02/20250204-PQ-SG-US-Relations
28. Tan, S. S. (2021). (Still) supporting the indispensable power: Singapore’s relations with the United States from Trump to Biden. Asia Policy, 16(4), tr.81.
29. Loraine Lee (2023). ‘We are always only aligned to one country – Singapore’: Shanmugam on need to put national interest first amid global challenges. https://www.todayonline.com/singapore/we-are-always-only-aligned-one-country-singapore-shanmugam-need-put-national-interest-first-amid-global-challenges-2101246.
30. Toàn văn Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. https://baochinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-102288263.htm.