“Bảng điều khiển số” – một trong những đột phá quan trọng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay

PGS. TS. Ngô Đình Xây
Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương

(Quanlynhanuoc.vn) – Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, với bản chất là cuộc cách mạng số, chính là cuộc cách mạng chuyển đổi số toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và các quá trình hoạt động trong xã hội, trong đó có đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc đột phá để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đòi hỏi phải có “Bảng điều khiển số” – công cụ này xác định các yêu cầu và tiêu chí cần có để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao dựa trên năm nhóm năng lực: năng lực tư duy; năng lực hoạt động; năng lực văn hóa; năng lực kỹ năng và năng lực trách nhiệm. Để làm rõ bối cảnh chuyển đổi số, bài viết đề xuất xây dựng “Bảng điều khiển số” như một công cụ quản trị và phân tích chi tiết các nhóm năng lực cốt lõi, góp phần định hướng đào tạo nhân lực số, nhân lực toàn cầu đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.

Từ khóa: Chuyển đổi số; “Bảng điều khiển số”; nguồn nhân lực chất lượng cao; cách mạng 4.0; phát triển nguồn nhân lực.        

1. Đặt vấn đề

Trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng gần đây, Đảng luôn xác định, đột phá về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược mang tính quyết định đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Văn kiện trình Đại hội XIV sắp tới, Đảng tiếp tục nhấn mạnh, phải có đột phá trong đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao và xem đó là một trong những đột phá trọng tâm để đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đặc biệt, trong hội nhập quốc tế và cạnh tranh toàn cầu, việc phát triển nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở đào tạo kiến thức chuyên môn mà còn phải gắn với năng lực số, đó là phải chuyển mạnh từ trạng thái “ban hành văn bản” sang trạng thái “quản trị thực thi” nhằm đáp ứng được công cuộc chuyển đổi số hiện nay. Do đó, việc thiết lập “ Bảng điều khiển số” như một công cụ quản trị, giám sát và điều phối các hoạt động phát triển nhân lực chất lượng cao, góp phần nâng cao năng lực quản lý nhà nước và hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội.

2. Chuyển đổi số và đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là cuộc cách mạng số, được triển khai trên nền tảng công nghệ số và sự tích hợp của các công nghệ thông minh, như: trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud), công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa và người máy(Robot)… Mục tiêu cốt lõi của cách mạng số là tối ưu hóa công trình, phương thức sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả quản lý.

Với quy mô và tốc độ phát triển theo cấp số nhân, cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang có bước phát triển đột phá trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc trưng nổi bật của cuộc cách mạng này chính là phải có quá trình chuyển đổi số toàn diện, nhằm thích ứng với mô hình phát triển mới, là quá trình triển khai hiện thực hóa chuyển đổi số trên cơ sở vận hành của trí tuệ nhân tạo và nhờ đó, nhân loại bước vào kỷ nguyên mới, – kỷ nguyên thông minh1.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số đã trở thành xu thế phát triển của mọi quốc gia và là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Chuyển đổi số thay đổi căn bản về tư duy phát triển, mô hình hoạt động và phương thức quản trị, được xem như một giải pháp chiến lược nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tối ưu hóa nguồn lực, kiến tạo giá trị mới cho xã hội và tạo lập vị thế mới cho dân tộc.

Tại Việt Nam,“Chuyển đổi số” được hiểu là quá trình thay đổi từ mô hình hoạt động truyền thống sang mô hình hoạt động dựa trên quá trình “số hóa” bằng cách áp dụng công nghệ mới, như: trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)… nhằm thay đổi phương thức quản lý, điều hành, lãnh đạo; quy trình làm việc và văn hóa cộng đồng cũng như làm thay đổi các quá trình sản xuất của xã hội. Cuộc cách mạng số là “cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuấtChuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế – xã hội mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại – phương thức sản xuất số2. Vì vậy, “khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là lựa chọn mà là con đường sống còn để phát triển nhanh và bền vững, là chìa khóa vàng để hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045”3.

Tuy nhiên, sự phát triển công cụ sản xuất trong nền kinh tế số tạo ra biến đổi sâu sắc của lực lượng sản xuất, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực công nghệ cao; đồng thời, cũng đòi hỏi thay đổi căn bản cách thức tổ chức sản xuất và quản lý xã hội4. Do vậy, với yêu cầu và sự tác động rất sâu rộng, toàn diện đến sự phát triển của Việt Nam hiện nay, cách mạng chuyển đổi số đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, sự đổi mới tư duy, hành động đồng bộ và sự đột phá phát triển trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, trong đó phải có sự đột phát về nguồn nhân lực cao. Trong đó, tiếp tục đột phá tư duy và phương thức tạo ra sức sản xuất mới, lực lượng sản xuất mới, chất lượng mới5. Điều này cho thấy, đột phá về nguồn nhân lực cao chính là đột phá trong đột phá – yếu tố quyết định để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thời gian qua, nhiều nghị quyết của Đảng tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa yêu cầu này, như: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về đột phá phát triển khu vực kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật; Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 09/9/2025 về tăng cường bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tất cả các nghị quyết trên đều nhấn mạnh vai trò trung tâm của nguồn nhân lực chất lượng cao ở các lĩnh vực khác nhau.

 Đặc biệt, cuộc cách mạng chuyển đổi số còn làm thay đổi tâm thế con người: từ bị động sang chủ động, từ “lời nói” sang “hành động”; từ “ban hành văn bản” sang “quản trị thực thi”. Nhờ có “bảng điều khiển số” công việc được tiến hành một cách “công khai, minh bạch, cập nhật theo dõi các chỉ số cốt lõi, các nút thắt, tiến độ thực hiện công việc”6. Đồng thời, cũng là một công cụ quản trị thông minh giúp cơ quan quản lý, đo lường, đánh giá hiệu quả chính sách nhân lực trên nền tảng dữ liệu số.

3. “Bảng điều khiển số” cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam.

Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay cần phải xác định các tiêu chí và yêu cầu cụ thể làm cơ sở cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá và sử dụng nhân lực. Trong “Bảng điều khiển số” cần tập trung vào năm nhóm năng lực cốt lõi, gồm: năng lực tư duy; năng lực hoạt động; năng lực văn hóa; năng lực kỹ năng và năng lực trách nhiệm.

3.1. Năng lực tư duy

Để đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng chuyển đổi số cần phải có tư duy số và tư duy mở.

(1) Tư duy số.  

Tư duy số được hình thành dựa trên sự kết hợp giữa trí tuệ con người và AI. Đây là năng lực nhận thức thông minh phù hợp với phương thức sản xuất số – nơi tri thức, trí tuệ tạo sinh để sản xuất vật chất, – tức là xuất hiện nền kinh tế tri thức đích thực.

(2) Tư duy mở.

Tư duy mở là yếu tố quan trọng bảo đảm cho nhân lực chất lượng cao có khả năng sáng tạo, linh hoạt và hội nhập. Tư duy mở là tư duy không bị dập khuôn, giáo điều; hay giới hạnbởi những quan niệm định kiến cũ, ngược lại, nó đòi hỏi phải có tầm nhìn rộng và nhận thức mới, đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu “phải thay đổi chủ nghĩa địa phương thành chủ nghĩa quốc gia, dân tộc”7. “Thế hệ trẻ cần có tư duy toàn cầu, khả năng giao tiếp quốc tế và kỹ năng ngoại ngữ vượt trội để chủ động hội nhập vào môi trường quốc tế, cạnh tranh công bằng và hiệu quả với bạn bè thế giới”8.

3.2. Năng lực hoạt động

Năng lực hoạt động của nguồn nhân lực chất lượng cao đòi hỏi phải chuyển từ hoạt động “quản lý” sang hoạt động “quản trị” hiện đại.

(1) Hoạt động quản trị.

Triết lý cốt lõi của quản trị quốc gia hiện đại là: “Giao quyền để tạo giá trị của một nền công vụ gần dân, đúng lúc và bền vững”9.      

(2) Phương châm hoạt động quản trị

Trong quá trình triển khai công việc phải bám sát phương châm 6 rõ: rõ nội dung, rõ chủ thể, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ hiệu quả, rõ sản phẩm. Qua đó đáp ứng yêu cầu cách mạng chuyển đổi số và định hình được hoạt động quản trị hiệu quả, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cao phải được tiếp cận theo tư duy quản trị.

3.3. Năng lực văn hóa  

Để đáp ứng với cuộc cách mạng chuyển đổi số, nguồn nhân lực cao cần được trang bị hệ giá trị văn hóa mới – văn hóa số. Văn hóa số là hành trình tìm kiếm những giá trị hướng đến sự thay đổi và phát triển toàn diện. Văn hóa số giúp con người thay đổi toàn diện từ tư duy, nhận thức, thái độ, thói quen đến lối sống, các mối quan hệ, hành vi ứng xử cũng như hoạt động trong môi trường công nghệ10.  

Việt Nam đã bước đầu hình thành văn hóa số trong quản lý hành chính và đời sống xã hội. Nhiều địa phương đã thực hiện chủ trương của Trung ương về sắp xếp đơn vị hành chính, như: lấy tên đơn vị hành chính cấp huyện để đặt tên cho đơn vị hành chính cấp xã (mới), khuyến khích đặt tên đơn vị theo số thứ tự nhằm tạo thuận lợi cho việc cập nhật dữ liệu và quản lý dữ liệu. Ngoài ra, văn hóa số biết ứng dụng  vào lĩnh vực văn hóa, như: số hóa di sản, bảo tàng, thư viện, điện ảnh; phát triển các nền tảng quảng bá văn hóa trực tuyến, tiến tới xây dựng cơ sở dữ liệu lớn trong toàn ngành”11.

 3.4. Năng lực kỹ năng

Cần phát triển công dân số, trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để người dân tham gia hiệu quả vào nền kinh tế số và xã hội số, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau12. Vì vậy, kỹ năng số của nguồn nhân lực chất lượng cao cần phải được xem xét trên hai khía cạnh cơ bản: kỹ năng số cứngkỹ năng số mềm.

Kỹ năng số cứng là “khả năng tìm kiếm, phân tích, sử dụng, chia sẻ và tạo nội dung bằng công nghệ thông tin và Internet”. Cụ thể, AI là “bộ não thứ hai” hỗ trợ hiệu quả trong phân tích, ra quyết định và là phương tiện kết nối con người với thế giới ảo.

Kỹ năng số mềm là kỹ năng tương tác, giao tiếp hiệu quả và thuyết phục; khả năng tự nhận thức và phát triển bản thân; kỹ năng hợp tác và kết nối; quản lý mâu thuẫn; quản lý căng thẳng (stress) và xây dựng lối sống lành mạnh13.

3.5. Năng lực trách nhiệm

Trong hoạt động của nguồn nhân lực chất lượng cao, năng lực trách nhiệm là phẩm chất cốt lõi, phản ánh năng lực đạo đức và ý thức công vụ. Năng lực trách nhiệm là ý thức tự giác và tinh thần chủ động hoàn thành nhiệm vụ được giao, phù hợp với chức năng, quyền hạn của cá nhân trong tổ chức. Được hình thành trên cơ sở những quy định của pháp luật, quy chế, điều lệ của tổ chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Tinh thần trách nhiệm là nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ14. Trong bối cảnh hiện nay, khi hệ thống chính trị được tinh gọn, nhất là ở địa phương với mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc thực hiện các nhiệm vụ một cách thông suốt, hiệu quả, bảo đảm mục tiêu chính quyền gần dân, sát dân và vì dân phục vụ càng đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao.

  4. Kết luận

Cuộc cách mạng số đang tác động sâu sắc, toàn diện đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với Việt nam, chuyển đổi số không chỉ là yêu cầu cần thiết mà còn là động lực chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần phát triển nhanh và bền vững. “Bảng điều khiển số” là một công cụ quản trị hiện đại, định hướng, đo lường và đánh giá quá trình đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân lực trên hệ thống dữ liệu. Trong đó, tư duy số và tư duy mở là nền tảng cho đổi mới sáng tạo, năng lực hành động thể hiện khả năng quản trị theo mục tiêu, văn hóa số là động lực nội sinh thúc đẩy thay đổi hành vi và giá trị, kỹ năng số là điều kiện để hội nhập và làm việc hiệu quả trong môi trường công nghệ, trách nhiệm là tiêu chí cốt lõi bảo đảm tính bền vững và đạo đức của đội ngũ nhân lực. Công cụ này thúc đẩy chuyển đổi phương thức quản trị nhân lực từ quản lý hành chính sang quản trị thông minh, hướng tới nền quản trị nhà nước hiện đại, minh bạch và hiệu quả. Trong tương lai việc xây dựng “Bảng điều khiển số” sẽ giúp Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế số, xã hội số bền vững, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau.

Chú thích:
1. Phát biểu của Giáo sư Klaus Schwab, nhà sáng lập kiêm Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) trong cuộc đối thoại với sinh viên các trường đại học Việt Nam tại Đại học Quốc gia Hà Nội về chủ đề “Định vị Việt Nam trong kỷ nguyên thông minh – Tầm nhìn cho thế hệ trẻ” (10/2024). Dẫn lại theo Việt Nam tự tin, bản lĩnh bước vào kỷ nguyên thông minh. https://baochinhphu.vn/thu-tuong-viet-nam-tu-tin-ban-linh-buoc-vao-ky-nguyen-thong-minh-102241007182648627.htm
2, 4, 7, 12. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm: Chuyển đổi số – động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. https://baochinhphu.vn/chuyen-doi-so-dong-luc-quan-trong-phat-trien-luc-luong-san-xuat-hoan-thien-quan-he-san-xuat-dua-dat-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi-102240901141502722.htm
3. Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ “chìa khóa vàng” cho khát vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. https://baochinhphu.vn/tong-bi-thu-chi-ro-chia-khoa-vang-cho-khat-vong-viet-nam-hung-cuong-thinh-vuong-102250929174856579.htm
5. Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm, diễu binh, diễu hành 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025). https://baochinhphu.vn/dien-van-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-le-ky-niem-50-nam-ngay-giai-phong-mien-nam-thong-nhat-dat-nuoc102250430082212301.htm
6. Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện 4 nghị quyết của Bộ Chính trị. Https://baochinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-hoi-nghi-toan-quoc-quan-triet-trien-khai-thuc-hien-4-nghi-quyet-cua-bo-chinh-tri-102250916113914318.htm
7. Sáp nhập tỉnh: Đừng lo mất quê, phải đổi từ “chủ nghĩa địa phương sang chủ nghĩa quốc gia” https://tuoitre.vn/sap-nhap-tinh-dung-lo-mat-que-phai-doi-tu-chu-nghia-dia-phuong-sang-chu-nghia-quoc-gia-20250319115817099.htm
8. Tổng Bí thư Tô Lâm – Tương lai cho thế hệ vươn mình. https://baochinhphu.vn/tuong-lai-cho-the-he-vuon-minh-102250324212853694.htm
9. Chính quyền địa phương hai cấp và triết lý phân quyền. https://dantri.com.vn/tam-diem/chinh-quyen-dia-phuong-hai-cap-va-triet-ly-phan-quyen-20250330081228371.htm
10. Ngô Đình Xây – Nguồn nhân lực số trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tạp chí Lý luận chính trị, số 563 (1/2025)
11. Phát huy tinh thần tiên phong khơi thông, đột phá, kiến tạo không gian phát triển văn hóa, thể thao và du lịch. https://baochinhphu.vn/phat-huy-tinh-than-tien-phong-khoi-thong-dot-pha-kien-tao-khong-gian-phat-trien-van-hoa-the-thao-va-du-lich-102250925100929796.htm
13. Theo Thinking School VN – Kỹ năng làm việc với con người. https://thinkingschool.vn/phat-trien-nang-luc-quan-ly-va-lanh-dao/ky-nang-lam-viec-voi-con-nguoi/
14. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 249.