TS. Tạ Thị Đoàn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ThS. Nông Bích Diệp
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Lạng Sơn
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, du lịch văn hóa được xác định là lĩnh vực có tiềm năng lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp văn hóa. Việc khai thác hiệu quả nguồn lực văn hóa không chỉ góp phần bảo tồn và lan tỏa các giá trị truyền thống dân tộc mà còn tạo nền tảng cho việc hình thành những sản phẩm, dịch vụ văn hóa mang tính sáng tạo và giá trị kinh tế cao. Bài viết tập trung đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò của du lịch văn hóa như một động lực quan trọng thúc đẩy công nghiệp văn hóa phát triển bền vững, phù hợp với yêu cầu đổi mới sáng tạo và xu hướng phát triển hiện nay ở Việt Nam.
Từ khóa: Du lịch văn hóa, công nghiệp văn hóa, đổi mới sáng tạo, Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh chuyển đổi số, kinh tế sáng tạo và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đang định vị lại vai trò của văn hóa như một nguồn lực mềm cho phát triển bền vững. Du lịch văn hóa, với khả năng kết nối di sản, bản sắc và sáng tạo, được xem là kênh quan trọng vừa quảng bá hình ảnh quốc gia, tạo giá trị kinh tế thông qua khai thác tài nguyên văn hóa. Sự giao thoa giữa bảo tồn và đổi mới sáng tạo đang mở ra chuỗi giá trị mới liên kết du lịch văn hóa với công nghiệp văn hóa, góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ khai thác tài nguyên sang phát triển dựa trên tri thức và sáng tạo.
Các định hướng lớn của Đảng về phát triển văn hóa, khoa học và đổi mới sáng tạo được xác định, như: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Kết luận số 156-KL/TW ngày 21/5/2025 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, theo đó, việc tích hợp du lịch văn hóa vào chính sách phát triển công nghiệp văn hóa quốc gia trở thành yêu cầu cấp thiết nhằm phát huy sức mạnh nội sinh và nâng cao năng lực cạnh tranh văn hóa Việt Nam. Đây chính là cơ sở, là con đường đưa văn hóa từ “giá trị tinh thần” trở thành nguồn lực kinh tế, từ di sản trở thành nền tảng sáng tạo, từ bản sắc trở thành sức mạnh cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số toàn cầu.
2. Mối liên kết giữa du lịch văn hóa và công nghiệp văn hóa
Trong hệ sinh thái của nền kinh tế sáng tạo, du lịch văn hóa và công nghiệp văn hóa không tồn tại như hai lĩnh vực tách biệt mà vận hành trong mối quan hệ tương hỗ – cộng sinh – thúc đẩy lẫn nhau. Mối quan hệ giữa hai lĩnh vực này hình thành nên một chuỗi giá trị văn hóa khép kín, trong đó, du lịch văn hóa đóng vai trò là đầu vào của cảm hứng sáng tạo, còn công nghiệp văn hóa trở thành đầu ra của giá trị gia tăng; đồng thời, mối quan hệ này còn góp phần kiến tạo một mô hình kinh tế văn hóa sáng tạo bền vững, nơi di sản, bản sắc và sáng tạo cùng vận hành hài hòa để mang lại giá trị cho xã hội và nền kinh tế.
(1) Du lịch văn hóa là nguồn cảm hứng và chất liệu sáng tạo cho công nghiệp văn hóa.
Du lịch văn hóa là nguồn nguyên liệu sống động của nền kinh tế sáng tạo. Thông qua việc khai thác, tái hiện và truyền tải các giá trị di sản, bản sắc và đời sống văn hóa địa phương, du lịch văn hóa không chỉ mang lại trải nghiệm thẩm mỹ và nhận thức cho du khách mà còn tái sinh các giá trị truyền thống dưới những ngôn ngữ sáng tạo mới. Mỗi không gian văn hóa, mỗi phong tục, lễ hội hay nghề truyền thống đều chứa đựng những câu chuyện, hình ảnh, biểu tượng có thể trở thành chất liệu cho sáng tạo nghệ thuật và sản xuất công nghiệp văn hóa.
Các yếu tố: kiến trúc cổ, lễ hội dân gian, làng nghề thủ công, nghệ thuật biểu diễn, ẩm thực vùng miền, tri thức bản địa… đều có thể trở thành nguồn cảm hứng cho các lĩnh vực sáng tạo, như: điện ảnh, âm nhạc, thời trang, mỹ thuật, thiết kế, quảng cáo, trò chơi điện tử, xuất bản hay sản phẩm lưu niệm. Ở góc độ này, du lịch văn hóa có thể được coi là một “phòng thí nghiệm sáng tạo mở”, nơi các nghệ sĩ, nhà thiết kế, nhà làm phim, nhà sản xuất văn hóa khai thác và tái định nghĩa di sản theo lăng kính đương đại. Nhờ vậy, di sản không còn là thực thể tĩnh mà trở thành nguồn năng lượng sáng tạo liên tục, được “kích hoạt” thông qua tương tác giữa du khách, cộng đồng địa phương và các chủ thể sáng tạo. Quá trình này góp phần mở rộng giá trị sử dụng của di sản, giúp văn hóa truyền thống không chỉ được bảo tồn mà còn được tái sinh trong không gian sáng tạo toàn cầu – một trong những xu hướng cốt lõi của công nghiệp văn hóa hiện nay.
(2) Công nghiệp văn hóa là đầu ra và giá trị gia tăng của du lịch văn hóa.
Nếu du lịch văn hóa tạo ra cảm hứng, chất liệu và nội dung sáng tạo thì công nghiệp văn hóa chính là khâu chuyển hóa những giá trị đó thành sản phẩm, dịch vụ và thương hiệu có giá trị kinh tế cao. Các trải nghiệm, biểu tượng và cảm xúc mà du khách tích lũy được trong hành trình du lịch văn hóa sẽ trở thành nguồn năng lượng để phát triển các sản phẩm sáng tạo: từ phim ảnh, âm nhạc, thiết kế không gian, sản phẩm lưu niệm, mô hình giải trí đến thương hiệu điểm đến.
Nhờ công nghiệp văn hóa, các giá trị của du lịch văn hóa được mở rộng trong không gian và thời gian: trải nghiệm du lịch không kết thúc khi hành trình khép lại mà tiếp tục được kéo dài trong ký ức, lan tỏa trên truyền thông và định vị trong tâm trí công chúng. Chẳng hạn: bộ phim lấy bối cảnh di sản Việt Nam (Phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, lấy bối cảnh là quang cảnh thiên nhiên, kiến trúc nông thôn, Ghềnh Đá đĩa ở Phú Yên; trong đó phạm vi lan tỏa của bộ phim đã tạo ra một cơn sốt du lịch nội địa. Ghềnh Đá đĩa trở thành địa điểm check-in hàng đầu khi khách du lịch đến Phú Yên. Phim đã chạm đến ký ức tuổi thơ của nhiều thế hệ, khiến trải nghiệm du lịch tại Phú Yên trở thành sự tái hiện cảm xúc chứ không chỉ là tham quan địa điểm. Điều đó đã chứng minh “công nghiệp văn hóa đã biến giá trị của du lịch văn hóa thành giá trị biểu tượng và giá trị kinh tế”.
Có thể khẳng định, mối quan hệ này tạo ra vòng tuần hoàn giá trị kép: du lịch văn hóa nuôi dưỡng công nghiệp văn hóa bằng trải nghiệm và cảm hứng, trong khi đó, công nghiệp văn hóa làm giàu cho du lịch văn hóa bằng sản phẩm, thương hiệu và hình ảnh văn hóa đặc trưng. Hai lĩnh vực này cùng nhau định hình bản sắc thương hiệu quốc gia góp phần nâng cao vị thế văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
3. Thực trạng mối liên kết giữa du lịch văn hóa và công nghiệp văn hóa ở Việt Nam
Những năm gần đây, mối liên kết giữa du lịch văn hóa và công nghiệp văn hóa ngày càng được xem là một động lực quan trọng nhằm phát huy giá trị văn hóa dân tộc, nâng cao sức cạnh tranh của ngành du lịch và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế sáng tạo quốc gia, góp phần chuyển dịch mô hình phát triển từ “du lịch khai thác tài nguyên” sang “du lịch dựa trên sáng tạo và giá trị văn hóa”.
Thứ nhất, ra đời của các sản phẩm văn hóa chất lượng cao dưới dạng loại hình văn hóa, nghệ thuật, sáng tạo, góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch Việt Nam, tiêu biểu như các show diễn thực cảnh được đầu tư lớn cả về nội dung và nghệ thuật: “Tinh hoa Bắc Bộ”, “Ký ức Hội An”, “Vũ điệu trên mây”… 1.
Thứ hai, phát triển du lịch kinh tế ban đêm. Chẳng hạn: Hà Nội đang triển khai 3 mô hình hoạt động, gồm:
(1) Mô hình hoạt động biểu diễn nghệ thuật, gồm: Show diễn thực cảnh “Tinh hoa Bắc Bộ”; Nhà hát múa rối Thăng Long Hà Nội; Nhà hát múa rối Việt Nam; Chương trình nghệ thuật Huyền thoại Tuổi thanh xuân – sống một đời đáng sống; tour đêm Tiếng chuông Trấn Vũ; chương trình biểu diễn “Cải lương – Tinh hoa nghệ thuật Việt”2.
(2) Mô hình Tham quan du lịch đêm, gồm: tour “Đêm thiêng liêng” tại Nhà tù Hỏa Lò về đêm với 3 chủ đề khác nhau: “Sáng ngời tinh thần Việt’, “Sống như những đóa hoa” và “Lửa thanh xuân”; tour đêm “Giải mã Hoàng Thành” tại Khu di tích Hoàng thành Thăng Long; tour đêm “Chữ Tâm Chữ Tài” tại Bảo tàng Văn học Việt Nam; Bus 2 tầng City Tour vào buổi đêm; tuyến xe điện Đồng Xuân; tour xích lô tham quan phố cổ; Lễ hạ cờ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh; Phố sách Hà Nội; tour xe đạp Đêm Thăng Long – Hà Nội; tour đêm Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Tinh hoa đạo học và Sử đá lưu danh; tour đêm “Ngọc Sơn – Đêm huyền bí”3.
(3) Mô hình giới thiệu văn hóa ẩm thực, dịch vụ ăn uống về đêm, gồm: không gian đi bộ khu phố cổ Hà Nội; Không gian đi bộ khu vực Hồ Hoàn Kiếm và phụ cận; Không gian văn hóa, nghệ thuật và ẩm thực phố đi bộ Trịnh Công Sơn; Phố đi bộ Thành cổ Sơn Tây, thị xã Sơn Tây; Khu phố ẩm thực kết hợp đi bộ Đảo Ngọc – Ngũ Xã, quận Ba Đình; Không gian phố đi bộ Trần Nhân Tông và khu vực phụ cận, Hai Bà Trưng; Khu phố kinh doanh dịch vụ, đi bộ khu vực hồ Ngọc Khánh, Ba Đình; Phố ẩm thực Tống Duy Tân – ngõ Hàng Bông; Tuyến phố ẩm thực Nguyễn Văn Tuyết, Đống Đa”4.
Các sản phẩm du lịch đêm đã góp phần kích thích tăng trưởng khách tham quan du lịch ban ngày tại một số điểm đến, như: Di tích Nhà tù Hỏa Lò năm 2019 đón 456.710 lượt khách, đến năm 2024 đón 790.416 lượt khách (tăng gấp 1,73 lần); Khu di tích Hoàng thành Thăng Long năm 2019 đón 385.032 lượt khách, đến năm 2024 đón 777.910 lượt khách (tăng gấp 2,02 lần); di tích Đền Ngọc Sơn năm 2019 đón 1.173.600 lượt khách, đến năm 2024 đón 1.200.000 lượt khách (tăng 1,02 lần)5. Đồng thời, các sản phẩm du lịch đêm đã góp phần tạo sự đa dạng, phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu của khách du lịch; qua đó góp phần kéo dài ngày lưu trú của du khách, nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch tại điểm đến. Đây là những lý do khiến du lịch đêm là yếu tố quan trọng trong phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế – xã hội nói chung6.
Thứ ba, di sản, danh thắng được kết hợp với các sự kiện văn hóa – thể thao – nghệ thuật góp phần tăng sức hút du lịch, nâng cao giá trị và thương hiệu điểm đến, đóng góp tích cực cho phát triển công nghiệp văn hóa và du lịch bền vững. Chẳng hạn: (1) Festival Huế là mô hình liên kết di sản và nghệ thuật biểu diễn với không gian tổ chức là Quần thể Di tích Cố đô Huế (Đại Nội, Ngọ Môn, cầu Trường Tiền…); kết hợp với nghệ thuật: nhã nhạc cung đình Huế; thời trang áo dài7; (2) Lễ hội âm nhạc FORESTIVAL được tổ chức ở đảo Khê Cốc (trái tim của Tràng An). FORESTIVAL mang đến một không gian lễ hội với sự hòa quyện của giai điệu âm nhạc cùng thiên nhiên kỳ vĩ, góp phần quảng bá hình ảnh địa phương, khuyến khích du lịch bền vững8; (3) Giải Marathon quốc tế di sản Hạ Long (Ha Long Bay Heritage Marathon) với không gian tổ chức: dọc vịnh Hạ Long (Di sản thiên nhiên thế giới), liên kết với ngành Thể thao, du lịch, truyền thông, đã thu hút hàng nghìn vận động viên và du khách quốc tế, giúp quảng bá hình ảnh Hạ Long là điểm đến năng động, thân thiện9.
Bên cạnh đó, mối liên kết này vẫn còn một số hạn chế: các sản phẩm du lịch văn hóa vẫn thiếu sáng tạo, thiếu dấu ấn riêng của từng vùng miền và chưa tận dụng hết tiềm năng để chuyển thành công nghiệp văn hóa thực thụ10; sự phối hợp giữa các địa phương, giữa ngành du lịch và ngành công nghiệp văn hóa chưa đồng bộ, dẫn tới “liên kết còn lỏng lẻo”11; nhiều tài nguyên du lịch văn hóa có giá trị vẫn chưa được đầu tư khai thác tương xứng với tiềm năng, nhiều điểm tài nguyên văn hóa có giá trị chưa được đầu tư khai thác thành sản phẩm du lịch12; việc phát triển du lịch văn hóa ở nước ta còn thiếu tính đồng bộ và liên kết trong xây dựng sản phẩm cũng như liên kết giữa các địa phương trong quá trình khai thác tài nguyên văn hóa, cho nên chưa tạo được những sản phẩm du lịch có chất lượng bền vững13; du lịch hầu như mới chỉ khai thác những giá trị thuộc về quá khứ của di sản văn hóa mà chưa khai thác những giá trị của hiện tại và tương lai, nên chưa tạo được những điểm mới. Hơn nữa, tính liên kết giữa các cá nhân sáng tạo, tập thể sáng tạo cũng đang bị hạn chế, dẫn đến không tạo được chuỗi giá trị bền vững cho sản phẩm14; còn thiếu những cơ chế, chính sách để thu hút cũng như bảo vệ những nhà đầu tư văn hóa, do đó chưa huy động được nhiều nguồn lực để phát triển du lịch văn hóa15.
4. Một số giải pháp
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách và đầu tư. Xây dựng khung pháp lý, ưu đãi thuế, vốn và đất đai cho dự án công nghiệp văn hóa dựa trên di sản; quy định rõ ràng về hợp tác công – tư (PPP). Thúc đẩy xã hội hóa bằng cách khuyến khích doanh nghiệp và cộng đồng tham gia đầu tư, đặc biệt trong sáng tạo và số hóa tài nguyên văn hóa. Tăng cường bảo vệ sở hữu trí tuệ và bản quyền các sản phẩm văn hóa để tạo niềm tin cho nhà đầu tư và nghệ sĩ.
Thứ hai, cần thiết lập hệ sinh thái chính sách liên ngành và liên vùng, trong đó: Nhà nước giữ vai trò kiến tạo thể chế, điều phối nguồn lực và dẫn dắt đổi mới sáng tạo; doanh nghiệp là hạt nhân đổi mới, thương mại hóa sản phẩm văn hóa – du lịch; cộng đồng là chủ thể bảo tồn, tái tạo và lan tỏa giá trị di sản; công nghệ số là công cụ kết nối, mở rộng không gian sáng tạo và nâng tầm giá trị văn hóa Việt Nam trên bản đồ toàn cầu.
Thứ ba, tập trung phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa có giá trị gia tăng cao dựa trên cốt lõi văn hóa. Chuyển từ tham quan thụ động sang trải nghiệm sâu và tương tác. Ví dụ: Phát triển các show diễn thực cảnh thế hệ mới (kết hợp công nghệ 3D Mapping, Hologram), tour du lịch kể chuyện (storytelling) hoặc du lịch điện ảnh (khai thác bối cảnh phim). Đồng thời, ứng dụng công nghệ để số hóa di sản và nâng cao trải nghiệm du lịch. Ví dụ: Xây dựng kho dữ liệu số về di sản, phát triển bảo tàng/tham quan thực tế ảo (VR/AR). Thiết kế sản phẩm lưu niệm: tập trung vào thiết kế công nghiệp văn hóa (Cultural Design) để biến các yếu tố văn hóa thành sản phẩm lưu niệm, quà tặng có tính thẩm mỹ, tiện ích và giá trị kinh tế cao, tránh hàng hóa đại trà.
Thứ tư, liên kết chuỗi giá trị. Xây dựng mô hình liên kết vùng (liên tỉnh, liên khu vực) để tạo ra các tuyến du lịch văn hóa trọng điểm, đa dạng và hấp dẫn, giúp du khách kéo dài thời gian lưu trú và tăng chi tiêu; đồng thời, thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các ngành Văn hóa, Du lịch, Thương mại và Công nghệ để cùng khai thác di sản, từ khâu ý tưởng, sản xuất đến phân phối.
Thứ năm, chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên gia có kiến thức liên ngành (văn hóa, kinh tế, marketing, công nghệ) để có khả năng thiết kế, quản lý và vận hành các dự án công nghiệp văn hóa chất lượng cao.
Thứ sáu, cộng đồng địa phương đóng vai trò là chủ thể trung tâm trong mọi hoạt động khai thác du lịch di sản. Điều đó không chỉ bảo đảm người dân được tham gia trực tiếp và hưởng lợi công bằng từ các hoạt động văn hóa mà còn là chìa khóa để nâng cao ý thức, trách nhiệm và tăng cường hiệu quả bảo tồn di sản một cách bền vững.
Chú thích:
1. Đưa du lịch văn hóa trở thành ngành công nghiệp văn hóa. https://nhandan.vn/dua-du-lich-van-hoa-tro-thanh-nganh-cong-nghiep-van-hoa-post832975.html
2, 3, 4. 5, 6. Hà Nội: Du lịch đêm góp phần kích thích tăng trưởng khách tham quan du lịch. https://bvhttdl.gov.vn/ha-noi-du-lich-dem-gop-phan-kich-thich-tang-truong-khach-tham-quan-du-lich-20250708163445156.htm.
7. Festival Huế – “cầu nối” gắn kết các nền văn hóa và hợp tác quốc tế. https://bvhttdl.gov.vn/festival-hue-cau-noi-gan-ket-cac-nen-van-hoa-va-hop-tac-quoc-te-20241001090652599.htm.
8. Concert 20.000 người kết hợp bảo tồn di sản thiên nhiên đất nước. https://tuoitre.vn/concert-20-000-nguoi-ket-hop-bao-ton-di-san-thien-nhien-dat-nuoc-20250601024936314.htm.
9. Giải Marathon quốc tế Di sản Hạ Long được cấp Nhãn thế giới. https://nhandan.vn/giai-marathon-quoc-te-di-san-ha-long-duoc-cap-nhan-the-gioi-post915069.html.
10. Cultural tourism needs more investment to become cultural industry. https://en.baoquocte.vn/cultural-tourism-needs-more-investment-to-become-cultural-industry-289045.html?utm
11. Cultural tourism requires more investment to become cultural industry. https://vietnamnews.vn/life-style/1664422/cultural-tourism-requires-more-investment-to-become-cultural-industry.html?utm.
12, 13, 14, 15. Đưa du lịch văn hóa trở thành ngành công nghiệp văn hóa. https://nhandan.vn/dua-du-lich-van-hoa-tro-thanh-nganh-cong-nghiep-van-hoa-post832975.html



