Trung tá, TS. Nguyễn Văn Toàn
Học viện Chính trị – Bộ Quốc Phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Từ thực tiễn tham gia phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, C.Mác và Ph.Ăngghen đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm, vấn đề nhà nước, quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước được hai ông luận giải trên nhiều khía cạnh. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước đến nay vẫn còn nguyên giá trị, mang tính thời sự, là cơ sở lý luận để Đảng, Nhà nước ta xác định các chủ trương, biện pháp kiểm soát quyền lực nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ khóa: C.Mác và Ph.Ăngghen, quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước, giá trị, tính thời sự, cơ sở lý luận.
1. Đặt vấn đề
Nhà nước và quyền lực nhà nước là sản phẩm tất yếu của sự phân chia xã hội thành giai cấp. Quá trình hoạt động của nhà nước, quyền lực nhà nước luôn có nguy cơ bị biến dạng, tha hóa, như: lạm quyền, chuyên quyền, buông lỏng, đòi hỏi giai cấp lãnh đạo và thống trị xã hội phải luôn coi trọng kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thông qua thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản ở châu Âu từ năm 1848 đến những năm 70 của thế kỷ XIX, C.Mác, Ph.Ăngghen đã đề cập và có những phác thảo sâu sắc về quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước như: nguồn gốc, bản chất, hình thức cho đến biện pháp xây dựng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước vô sản. Các ông chỉ ra rằng, phải coi trọng kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước thực hiện đúng bản chất, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách mạng vô sản.
C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập và phân tích sâu sắc nguồn gốc, bản chất của nhà nước. Các ông khẳng định, nhà nước là một tổ chức quyền lực đặt biệt, nó vừa là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền, thực hiện chức năng thống trị giai cấp, Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy trấn áp của giai cấp này đối với một giai cấp khác”1. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp và đối kháng giai cấp, những người tự do và nô lệ – những kẻ giàu có đi bóc lột và những người nghèo khổ bị bóc lột, mâu thuẫn, xung đột và đi đến chỗ ngày càng gay gắt, xã hội cần có tổ chức quyền lực mạnh để ổn định và phát triển, tức là xã hội cần có nhà nước. Mặt khác, nhà nước cũng là một tổ chức quyền lực công của toàn xã hội, thực hiện chức năng công quyền, sử dụng quyền lực công cộng để tổ chức đời sống xã hội.
Về bản chất của quyền lực nhà nước, C.Mác, Ph.Ăngghen khẳng định quyền lực là mối quan hệ tất yếu, khách quan đối với đời sống xã hội.Các quan hệ quyền lực có tính phổ quát trong mọi tổ chức xã hội. Theo các ông, quyền lực là một mối quan hệ xã hội,trong đó, người này hay nhóm người này chi phối hành vi của nhóm người kia theo cách áp đặt ý chí của mình đối với người khác, buộc họ phải phục tùng. Theo các ông, nhà nước “không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội” mà là “một lực lượng nảy sinh từ xã hội”, một lực lượng “tựa hồ đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự”2.
Hai ông cho rằng sự phát sinh của quyền lực do nhu cầu của con người phải kết hợp với nhau trong quá trình sản xuất là một tất yếu khách quan. Bản chất của quyền lực nhà nước theo C.Mác và Ph.Ăngghen là sự thống trị giai cấp, quyền lực nhà nước ra đời khi xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng. Trong xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, nhà nước là bộ máy quyền lực mà giai cấp thống trị sử dụng để buộc giai cấp bị trị phải tuân thủ ý chí của giai cấp thống trị.
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, quá trình quyền lực nhà nước được tổ chức thực thi chính là quá trình giải quyết mâu thuẫn xuất hiện từ sự thay đổi của các điều kiện kinh tế trong sự tồn tại của mình, trong đó yếu tố chủ đạo là sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hóa “đưa chiếm hữu tư nhân lên thành một quy tắc chiếm ưu thế” và “…chừng nào các vị còn tiếp tục sản xuất một cách vô ý thức, vô nghĩa, phó mặc cho sự thống trị của ngẫu nhiên, thì chừng đó những cuộc khủng hoảng thương mại vẫn còn”3. Từ sự phân tích đó, Ph.Ăngghen đi đến kết luận về quyền lực chính trị và coi quyền lực chính trị như một sức mạnh của những nhóm người khác nhau về địa vị, lợi ích trong phân công lao động xã hội hay trong đời sống xã hội.
Các ông bàn đến quyền lực công cộng với nội hàm là quyền lực của các thành viên xã hội góp một phần quyền của mình mà tạo nên khi tham gia vào đời sống cộng đồng. Theo C.Mác quyền lực nhà nước có hai đặc trưng cơ bản, vừa là quyền lực của giai cấp có thế lực nhất, vừa là quyền lực công. “Đặc trưng thứ hai của nhà nước là sự thiết lập một quyền lực công cộng, không còn trực tiếp là dân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa. Quyền lực công cộng đặc biệt đó là cần thiết, vì từ khi có sự phân chia xã hội thành giai cấp thì không thể có tổ chức vũ trang tự hoạt động của dân cư được nữa”4.
C.Mác và Ph.Ănghen khẳng định quyền lực nhà nước vô sản là quyền lực được nhân dân ủy quyền, phục tùng ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của Công xã Pari, C.Mác đã đề cập đến kiểm soát quyền lực của chính quyền mới với các nhận định, cách tiếp cận khác nhau trong tổ chức thực hiện quyền lực của giai cấp vô sản. C.Mác cho rằng, trong xã hội mới, những nhân viên của nhà nước vô sản không chỉ được bầu ra, mà còn bị bãi miễn bất cứ lúc nào; lương cho họ không cao hơn lương công nhân; các tổ chức đại biểu cho giai cấp lao động phải thi hành ngay những biện pháp khiến tất cả mọi người lao động đều có thể làm chức năng kiểm sát và giám thị, khiến tất cả mọi người đều tạm thời biến thành “quan liêu” và do đó khiến không một ai có thể biến thành quan liêu được nữa.
C.Mác chỉ ra, quyền lực thực sự của nhà nước dân chủ thuộc về Nhân dân, khi thực hiện quyền lực của Nhân dân, tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân trong xây dựng và phát triển nhà nước là thực hiện chế độ dân chủ trong xã hội: “Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con người được khách thể hóa. Cũng giống như tôn giáo không tạo ra con người mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy; không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà Nhân dân tạo ra nhà nước”5. Như vậy, mức độ và tính chất dân chủ trong nhà nước và xã hội phản ánh tính chất, đặc trưng và lý do tồn tại của nhà nước, chế độ chính trị đó.
C.Mác cho rằng, cách thức tổ chức quyền lực của nhân dân phải thông qua việc bầu cử, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong chế độ nhà nước dân chủ, cán bộ, công chức phải do nhân dân lựa chọn, thực hiện đúng tính chất đại biểu của nhân dân. Ông viết: “Bầu cử là quan hệ thực sự của xã hội công dân thực sự, với xã hội công dân của quyền lập pháp, với yếu tố đại biểu. Nói cách khác, bầu cử là quan hệ trực tiếp, thẳng, không chỉ có tính chất đại biểu mà đang thực tế tồn tại, của xã hội công dân với nhà nước chính trị. Vì vậy, hiển nhiên là bầu cử cấu thành lợi ích chính trị quan trọng nhất của xã hội công dân thực sự”6.
C.Mác và Ph.Ăngghen sớm dự báo và phác thảo những tư tưởng cơ bản về kiểm soát quyền lực nhà nước vô sản. C.Mác dự báo nguy cơ quan liêu, tha hóa quyền lực nhà nước. Trong các tác phẩm của mình, C.Mác đã sử dụng khái niệm “tha hóa” để lý giải hiện tượng công chức và bộ máy nhà nước, vốn dĩ là một cơ cấu do xã hội tạo ra vì mục đích làm cho xã hội con người tốt hơn lại trở nên xa lạ với những người tạo ra nó, nuôi dưỡng nó, thậm chí bị nó áp bức. Vì vậy, ông sớm có tư tưởng cần phải kiểm soát cơ quan quyền lực nhà nước. Cơ quan công xã phải kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các viên chức: “Công xã không tự cho mình là không bao giờ sai lầm, như tất cả các chính phủ cũ vẫn tự nhận là như thế, Công xã công bố tất cả những báo cáo hội nghị của mình, thông báo tất cả những hoạt động của mình, nói cho công chúng biết tất cả những khuyết điểm của mình”7.
C.Mác cho rằng phải kiểm soát quyền lực nhà nước chặt chẽ nhằm tránh khắc phục sự tùy tiện trong tổ chức và hoạt động của chính quyền vô sản. Mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước là đảm bảo sự trật tự, quy củ của hoạt động của các cá nhân, tránh sự tùy tiện trong nhà nước vô sản: “Tính quy củ và trật tự ấy chính là sự củng cố về mặt xã hội của phương thức sản xuất và do đó có sự giải phóng tương đối của phương thức sản xuất ấy khỏi sự chi phối của ngẫu nhiên đơn thuần và của sự tuỳ tiện đơn thuần”8. Ông đã xác định rõ mục đích của kiểm soát quyền lực Công xã là quản lý toàn bộ đời sống xã hội là đảm bảo tính an toàn, gạt bỏ ở mức độ cao nhất của nhân tố chủ quan, những ngẫu nhiên, tuỳ tiện của các hoạt động riêng lẻ của cá nhân.
C.Mác khẳng định vai trò của pháp luật trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo ông, pháp luật là công cụ quan trọng nhất để nhà nước duy trì trật tự xã hội một cách hợp pháp theo ý chí mà giai cấp thống trị muốn hướng đến. Tuy nhiên, trong xã hội dân chủ, pháp luật không chỉ là công cụ để nhà nước quản lý xã hội mà còn là công cụ để quản lý chính bản thân cán bộ, công chức, C.Mác nhấn mạnh: “Không một người nào, ngay cả nhà lập pháp ưu tú nhất, cũng không được đặt cá nhân mình cao hơn luật pháp do mình bảo vệ”9. Theo đó, tính tối thượng của pháp luật không chỉ đối với mọi người trong xã hội mà còn tối thượng ngay bản thân đối với nhà nước – với vai trò là người ban hành pháp luật. Để tránh sự “tùy tiện” của cơ quan nhà nước và người được nhà nước ủy quyền trong thực thi công vụ đều có thể xảy ra, C.Mác nêu rõ: “luật pháp là những tiêu chuẩn khẳng định rõ ràng, phổ biến… không phụ thuộc và sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh của tự do của nhân dân”10.
2. Vận dụng tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen về kiểm soát quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Vận dụng tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen về kiểm soát quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay phải phù hợp với thực tiễn xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và phải có định hướng, tránh sự tùy tiện, vô nguyên tắc. Theo đó, cần việc vận dụng cần tập trung vào các định hướng cơ bản sau đây:
Một là, tiếp tục nghiên cứu, nắm vững bản chất khoa học, cách mạng và vận dụng sáng tạo tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen về kiểm soát quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vận dụng tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen về kiểm soát quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa cần tuân thủ, tôn trọng những đặc điểm, nội dung, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, những nội dung căn cốt, bản chất tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen về kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng, đồng thời khẳng định rõ vai trò quan trọng của nhận thức lý luận đối với thực tiễn hành động của con người. Phân tích, đánh giá toàn diện tác động thuận lợi và khó khăn đến kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Hai là, vận dụng tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen về kiểm soát quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay phải hướng tới xây dựng, tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả. Nội dung định hướng này chỉ ra vận dụng tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen về kiểm soát quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tập trung vào xây dựng, tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp trong sạch, vững mạnh, tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, phải tập trung hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các thiết chế nhà nước theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phân công chức năng, nhiệm vụ và phân cấp, phân quyền rõ ràng giữa các cấp quản lý.
Ba là, vận dụng tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen về kiểm soát quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay cần hướng vào xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế, điều kiện kiểm soát quyền lực nhà nước. Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy Nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tự kiểm soát của Quốc hội theo hướng quy định rõ trình tự, thủ tục để Quốc hội tự xem xét lại tính hợp hiến của các bộ luật; khắc phục tính hình thức trong quy trình xây dựng và ban hành luật của Quốc hội, xác định trách nhiệm của các cơ quan xây dựng và ban hành luật. Tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ bằng hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Bảo đảm tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật, quy định, quy chế làm việc, quy trình nghiệp vụ, chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan.
Quan tâm đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra cán bộ. Phát huy vai trò của các cơ quan kiểm tra, thanh tra các cấp. Thường xuyên tăng cường kiểm tra trách nhiệm người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quyết định và người đứng đầu cơ quan tham mưu nhà nước; chủ động nắm tình hình, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời, không có “vùng cấm” đối với các sai phạm trong công tác cán bộ. Cơ quan thanh tra cần chủ động thực hiện thanh tra đột xuất khi phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật, tập trung thanh tra ở những nơi có vấn đề phức tạp, dư luận quan tâm, lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực.
Bốn là, coi trọng lãnh đạo hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; khẩn trương bổ sung, hoàn thiện thể chế về phòng ngừa tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, buông lỏng quản lý nhà nước nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực, như: đấu thầu, đấu giá, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công, đầu tư công, ngân hàng, tài chính, chứng khoán. Nâng cao năng lực lãnh đạo các cấp ủy, tổ chức đảng khắc phục khâu yếu trong công tác kiểm soát quyền lực nhà nước trong thời gian qua, như: công tác tự kiểm tra, phát hiện sự suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống, lợi ích nhóm, tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ; công tác quản lý cán bộ, đảng viên; hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội các cấp và nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước; kiểm soát xung đột lợi ích; kiểm soát tài sản thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.
Hoàn thiện cơ chế pháp lý để thu hút Nhân dân tham gia kiểm soát quyền lực Nhà nước. Xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp luật về quyền giám sát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Cần xác định nội dung, phương thức kiểm tra, giám sát, phản ánh của Nhân dân với các quy định rõ ràng, cụ thể để người dân hiểu rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm kiểm tra, giám sát của mình, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch thông tin liên quan đến tổ chức hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức của nhà nước để Nhân dân kiểm tra, giám sát.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể Nhân dân và cơ quan báo chí trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng cơ chế công khai về việc tiếp thu, điều chỉnh, sửa đổi bổ sung của cơ quan và người có thẩm quyền đối với các kiến nghị giám sát của nhân dân, kiến nghị giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội đối với các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức. Phát huy tiềm năng của các thành viên rộng lớn của Mặt trận Tổ quốc trong hoạt động giám sát, tham mưu ý kiến của các cá nhân tiêu biểu, phát huy ưu thế của các chuyên gia.
Tập trung rà soát, sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn và bổ sung những quy định mới liên quan đến giám sát của báo chí đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; xác định cụ thể hơn phạm vi giám sát của báo chí đối với cơ quan hành chính nhà nước; tăng cường sự phối hợp giữa giám sát của báo chí với giám sát xã hội của các tổ chức, cá nhân và hoạt động kiểm tra của các tổ chức đảng, thanh tra, giám sát của các cơ quan nhà nước.
3. Kết luận
Những quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ănghen về quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước thể hiện lợi ích của giai cấp vô sản, phục vụ sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức và bóc lột. Đồng thời, đây còn là cương lĩnh đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động nhằm xóa bỏ nhà nước, quyền lực nhà nước của giai cấp bóc lột, tạo lập và thực thi quyền lực nhà nước vô sản. C.Mác và Ph.Ănghen nghiên cứu về quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản đương thời, dựa trên những khái quát có tính quy luật kinh tế, chính trị và sự tồn tại của Công xã Pari. Kiểm soát quyền lực nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay cần nghiên cứu, nắm vững bản chất khoa học, cách mạng, vận dụng sáng tạo những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước phù hợp với thực tiễn thế giới và đất nước ./.
Chú thích:
1. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995). Tập 22. H. NXB chính trị quốc gia, tr. 290 – 291.
2, 4. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995). Tập 21. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 253.
3, 5, 6, 8, 10. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 771, 350, 496, 202, 95.
7. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995). Tập 17. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 463.
9. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995). Tập 25. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 503.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Phan Thanh Khôi (2000). Nghiên cứu một số tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen trên cơ sở nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội khoa học. Đề tài khoa học cơ sở, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Tuấn (2015). Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong kiểm soát quyền hành pháp ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.



