Nâng cao chất lượng giảng dạy ở các nhà trường quân đội trước tác động của chuyển đổi số

TS. Nguyễn Trung Tuyên
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Thế giới đang bước vào thời kỳ chuyển đổi số sâu rộng, nơi công nghệ trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi lĩnh vực, trong đó có giáo dục và đào tạo. Với chức năng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật cho toàn quân, các nhà trường quân đội không thể đứng ngoài xu thế ấy. Trong bối cảnh mới, việc nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên trước tác động mạnh mẽ của chuyển đổi số không chỉ là yêu cầu chuyên môn mà còn là nhiệm vụ chính trị trọng yếu, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

Từ khóa: Chất lượng giảng dạy, giảng viên, nhà trường quân đội, chuyển đổi số.

1. Đặt vấn đề

Chất lượng giảng dạy là một trong những yếu tố cốt lõi quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo của các nhà trường quân đội. Chất lượng giảng dạy của giảng viên vì thế không đơn thuần là chuẩn mực chuyên môn mà còn là “tấm gương tư tưởng” phản ánh tầm vóc trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh chính trị của người giảng viên. Một bài giảng hay, đúng, sâu sắc, phương pháp sinh động, phù hợp với đối tượng sẽ có sức lan tỏa mạnh mẽ, giúp học viên tiếp thu vững vàng lý luận, củng cố niềm tin, nâng cao ý thức cách mạng, sẵn sàng hành động đúng trong thực tiễn quân sự, quốc phòng. Tuy nhiên, chất lượng giảng dạy của giảng viên không phải là yếu tố bất biến mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có sự phát triển của khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ số.

Bài giảng của giảng viên nếu không cập nhật tri thức mới, không đổi mới phương pháp, không áp dụng công nghệ giảng dạy hiện đại thì sẽ khó truyền cảm hứng, khó phát huy tính tích cực của người học và khó có thể đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ thời kỳ mới. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên không chỉ là mục tiêu thường xuyên mà trở thành một nhu cầu bức thiết, gắn với quá trình chuyển đổi số ở các nhà trường quân đội hiện nay.

2. Thực tiễn quá trình nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên quân đội theo hướng số hóa

Chuyển đổi số trong giáo dục là một xu thế không thể đảo ngược. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ giáo dục, đào tạo phải đi đầu trong ứng dụng công nghệ số, hướng tới xây dựng nền giáo dục thông minh, đào tạo con người có năng lực thích ứng, sáng tạo trong thời đại số. Đối với các nhà trường quân đội, yêu cầu chuyển đổi số được đặt ra không chỉ nhằm hiện đại hóa hoạt động giảng dạy, học tập, mà còn nhằm tạo ra một môi trường giáo dục hiện đại, liên thông, tích hợp, góp phần nâng cao năng lực số cho cán bộ quân đội trong tương lai.

Chuyển đổi số trong giảng dạy ở các nhà trường quân đội không chỉ dừng lại ở việc sử dụng phần mềm trình chiếu, hay tổ chức lớp học online mà đòi hỏi giảng viên phải làm chủ các công nghệ giáo dục hiện đại, như: hệ thống quản lý học tập (LMS), học liệu số, thiết kế bài giảng e-learning, xây dựng ngân hàng câu hỏi, sử dụng dữ liệu học tập để cá thể hóa việc dạy, học. Bên cạnh đó, việc tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI), phân tích học tập (learning analytics), học tập tương tác (interactive learning) cũng đang được khuyến khích mạnh mẽ.

Nhằm đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW ngày 20/12/2022 và Nghị quyết số 3488-NQ/QUTW ngày 29/01/2025 về đột phá phát triển khoa học – công nghệ đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong quân đội của Quân ủy Trung ương, các nhà trường quân đội đã xác định và thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học. Một trong những giải pháp quan trọng là tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học theo hướng hiện đại. Đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến, hiện đại vào dạy học và quản lý, điều hành huấn luyện.

Hiện nay, các nhà trường quân đội đang đẩy mạnh triển khai hoạt động chuyển đổi số, trọng tâm là tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên có chất lượng toàn diện; hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, trang thiết bị về công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực quân sự chất lượng cao. Trong đó, tập trung vào việc đào tạo nâng cao năng lực số cho đội ngũ giảng viên, phát triển hạ tầng công nghệ số (như: phòng học thông minh, thư viện số, mô phỏng ảo). Đồng thời, không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin, công nghệ mô phỏng vào giảng dạy; từ đó, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.

Thực tiễn cũng cho thấy, mặc dù chuyển đổi số đã và đang được triển khai tại các nhà trường quân đội nhưng chất lượng giảng dạy của một số giảng viên vẫn chưa theo kịp yêu cầu. Nhiều giảng viên còn hạn chế về năng lực công nghệ, thiếu kiến thức và kỹ năng thiết kế bài giảng điện tử, sử dụng học liệu số và tổ chức lớp học trực tuyến hiệu quả. Việc sử dụng công nghệ trong giảng dạy còn mang tính hình thức, đối phó, chưa phát huy được tính tương tác, chưa tạo ra sự đổi mới thực chất trong tư duy sư phạm. Hệ quả là còn một số không ít bài giảng vẫn nặng về đọc, chép, thiếu tính hấp dẫn, thiếu khả năng kích thích tư duy và tương tác học tập. Đặc biệt, ở những môn lý luận chính trị, vốn đã khó tiếp cận với người học nếu không đổi mới về hình thức, phương pháp và công nghệ, bài giảng càng trở nên khó hấp thụ, dẫn đến hiệu quả giảng dạy thấp. Ngoài ra, sự thiếu đồng bộ về hạ tầng công nghệ, thiếu học liệu số chất lượng, chưa có hệ thống đánh giá năng lực số của giảng viên cũng là những rào cản lớn làm chậm quá trình nâng cao chất lượng giảng dạy theo hướng số hóa.

Trong thời kỳ mới, yêu cầu đối với cán bộ quân đội không chỉ là phẩm chất chính trị, đạo đức, bản lĩnh mà còn là năng lực tư duy lý luận, năng lực quản lý, lãnh đạo trong môi trường số, khả năng nắm bắt dư luận, xử lý thông tin đa chiều và sử dụng hiệu quả công cụ truyền thông mới trong xây dựng trận địa tư tưởng trong quân đội. Đào tạo được những cán bộ như vậy, trước hết bài giảng của giảng viên ở các nhà trường quân đội phải thực sự hiện đại, sâu sắc, cập nhật, phương pháp tiên tiến, tích hợp công nghệ, từ đó, hình thành ở học viên một hệ tư duy thích ứng với môi trường số hóa toàn diện. Vì vậy, nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên trong điều kiện chuyển đổi số không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn, mà là yêu cầu chiến lược, góp phần trực tiếp vào xây dựng đội ngũ cán bộ, sĩ quan đủ năng lực lãnh đạo, quản lý trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện đại.

3. Một số giải pháp

Thứ nhất, tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong quán triệt, tổ chức thực hiện nâng cao chất lượng giảng dạy.

Cần phải nâng cao nhận thức, phát huy vai trò của cấp ủy, chỉ huy các cấp ở các nhà trường quân đội. Cấp ủy, chỉ huy phải thể hiện quyết tâm lãnh đạo, cụ thể hóa bằng nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch thực hiện chuyển đổi số; bố trí nguồn lực cần thiết về con người, tài chính, cơ sở vật chất. Các khoa, phòng tham mưu tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, xây dựng tiêu chí đánh giá ứng dụng chuyển đổi số trong giảng dạy. Giảng viên cần chủ động nâng cao trình độ công nghệ, kỹ năng thiết kế bài giảng điện tử, tổ chức lớp học tương tác, khai thác hiệu quả học liệu số. Học viên là trung tâm của quá trình học tập được rèn luyện kỹ năng số, phát huy tính tự chủ, sáng tạo, phản biện. Sự phối hợp đồng bộ giữa các lực lượng sẽ tạo sức mạnh tổng hợp, bảo đảm hiệu quả bền vững trong chuyển đổi số.

Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm của giảng viên về chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo. Tổ chức quán triệt sâu sắc các nghị quyết, văn bản chỉ đạo, như: Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Nghị quyết số 109-NQ/QUTW ngày 11/02/2019 của Quân ủy Trung ương về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội, nhất là cấp chiến dịch, chiến lược đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; Nghị quyết số 3488-NQ/QUTW ngày 29/1/2025 của Quân ủy Trung ương về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo và chuyển đổi số trong quân đội… Đặc biệt, đã triển khai thực hiện với nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến, như: tổ chức hội nghị, hội thảo, tập huấn trực tuyến, tài liệu điện tử, bảo đảm mọi cán bộ, giảng viên, học viên nắm vững chủ trương, thống nhất nhận thức và hành động trong triển khai chuyển đổi số.

Phát huy vai trò của các cơ quan chức năng trong tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra việc triển khai chuyển đổi số gắn với nâng cao chất lượng giảng dạy, các nhà trường quân đội cần chủ động xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng chuyển đổi số cho giảng viên và học viên theo hướng thiết thực, hiệu quả. Thường xuyên tổ chức các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn giảng viên giỏi ứng dụng công nghệ, cuộc thi đổi mới phương pháp dạy học số để khuyến khích sáng tạo, trao đổi kinh nghiệm. Đồng thời, cấp ủy, chỉ huy trong các nhà trường cần đưa nội dung chuyển đổi số vào kế hoạch công tác, đầu tư hạ tầng công nghệ, phòng học thông minh, hệ thống mạng chất lượng cao và có cơ chế khen thưởng kịp thời đối với tập thể, cá nhân đi đầu trong ứng dụng công nghệ.

Bên cạnh đó, tạo môi trường thi đua lành mạnh, khuyến khích đổi mới, nhân rộng điển hình tiên tiến trong ứng dụng công nghệ vào giảng dạy. Các nhà trường quân đội cần tiếp tục ban hành tiêu chí thi đua một cách cụ thể, gắn kết quả ứng dụng công nghệ với đánh giá chất lượng giảng dạy; tổ chức bình chọn, tôn vinh “Giảng viên số tiêu biểu”, “Bài giảng số xuất sắc”, “Nhóm nghiên cứu đổi mới dạy học hiệu quả” để lan tỏa tinh thần sáng tạo. Các nhà trường quân đội cần có cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần phù hợp, hỗ trợ giảng viên trong nghiên cứu, sản xuất học liệu số, phát triển mô hình giảng dạy hiện đại. Kết quả đổi mới cần được đưa vào tiêu chí xét danh hiệu thi đua, khen thưởng, bổ nhiệm chức danh. Đồng thời, xây dựng mô hình “tổ giảng dạy số tiên phong” trong từng khoa, bộ môn để làm hạt nhân lan tỏa, chia sẻ kinh nghiệm, hình thành mạng lưới cộng đồng học tập số trong các nhà trường quân đội

Hai là, xây dựng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giảng dạy.

Lãnh đạo, chỉ huy các nhà trường quân đội cần đổi mới công tác tuyển chọn, đào tạo giảng viên; công tác tuyển chọn cần dựa trên tiêu chí toàn diện, không chỉ bằng cấp mà cả năng lực tư duy logic, tinh thần học tập suốt đời, khả năng ứng dụng công nghệ số và đổi mới phương pháp giảng dạy. Ưu tiên giảng viên trẻ có tư duy sáng tạo, năng lực nghiên cứu và tinh thần cầu tiến. Cần xây dựng bài kiểm tra năng lực số, kỹ năng sáng tạo trong quy trình tuyển chọn để bảo đảm đội ngũ giảng viên có khả năng thích ứng và đổi mới trong thời đại số. Tăng cường bồi dưỡng năng lực sư phạm và năng lực số cho đội ngũ giảng viên. Các nhà trường quân đội cần phối hợp với các cơ sở đào tạo, trung tâm công nghệ, tổ chức chuyên ngành để tổ chức các chương trình bồi dưỡng hiện đại, tích hợp kỹ năng số và phương pháp giảng dạy trực tuyến. Nội dung đào tạo, bao gồm: kỹ năng thiết kế bài giảng điện tử, sử dụng phần mềm quản lý học tập, vận dụng công nghệ thực tế ảo, AI trong giảng dạy, cùng kiến thức về an toàn, bảo mật thông tin. Các khóa bồi dưỡng cần tổ chức định kỳ, kết hợp lý thuyết và thực hành, giúp giảng viên rèn luyện năng lực công nghệ toàn diện, cập nhật xu hướng mới trong giảng dạy số.

Để phát huy tính chủ động, sáng tạo của giảng viên trong học tập và ứng dụng công nghệ, các nhà trường quân đội cần tạo cơ chế khuyến khích giảng viên tự học, tự nghiên cứu, tích cực ứng dụng công nghệ trong giảng dạy thông qua sinh hoạt chuyên môn, diễn đàn trực tuyến, nhóm nghiên cứu công nghệ, hoặc tham gia các khóa học mở (MOOCs), hội thảo chuyên ngành. Kết quả học tập và đổi mới công nghệ của giảng viên cũng cần được đưa vào tiêu chí thi đua, khen thưởng, bổ nhiệm nhằm tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập suốt đời và sáng tạo sư phạm. Ngoài ra, cần đầu tư đồng bộ hạ tầng công nghệ thông tin, xây dựng phòng học thông minh, mạng tốc độ cao, hệ thống học liệu số, thư viện điện tử và kho tài nguyên giảng dạy trực tuyến, theo đó, cần có chính sách hỗ trợ tài chính thiết thực, như: phụ cấp công nghệ, kinh phí phát triển bài giảng điện tử, khuyến khích nghiên cứu ứng dụng công nghệ. Đồng thời, cân đối khối lượng công tác để giảng viên có thời gian học tập, nâng cao trình độ; tạo điều kiện tham gia hội thảo, trao đổi quốc tế để mở rộng tầm nhìn và cập nhật xu thế giáo dục hiện đại.

Ba là, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số.

Cấp ủy, chỉ huy các nhà trường quân đội phải thường xuyên cập nhật, bổ sung nội dung giảng dạy bảo đảm tính khoa học, thời sự và phù hợp với đặc điểm học viên trong thời kỳ chuyển đổi số. Các khoa, bộ môn cần thường xuyên rà soát, đánh giá, điều chỉnh chương trình, xây dựng cơ chế cập nhật định kỳ, hệ thống, bổ sung tri thức mới về lý luận, thực tiễn và các vấn đề thời sự quốc tế liên quan đến quân sự, quốc phòng và công nghệ số. Cần tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng thiết kế học liệu số, tổ chức lớp học trực tuyến, nâng cao năng lực công nghệ cho giảng viên. Đồng thời, vai trò lãnh đạo, quản lý phải được phát huy nhằm tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích đổi mới sáng tạo trong giảng dạy.

Đối với giảng viên, cần đổi mới công tác chuẩn bị bài giảng, giáo án, học liệu, học cụ theo hướng hiện đại và số hóa; vận dụng linh hoạt các công cụ hỗ trợ, như: PowerPoint nâng cao, Canva, Camtasia, Mentimeter, Kahoot, Padlet… để xây dựng bài giảng sinh động, có tính tương tác cao. Bài giảng số cần ngắn gọn, logic, tích hợp đa phương tiện, như: video, hình ảnh, sơ đồ tư duy, mô phỏng tình huống, bài tập tương tác. Các nhà trường quân đội cần xây dựng ngân hàng học liệu điện tử thống nhất gồm giáo trình số, bài giảng mẫu, đề cương, video bài giảng, bài kiểm tra trực tuyến; ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) trong phân tích nhu cầu học tập, hỗ trợ cá thể hóa học liệu. Bài giảng phải phù hợp với mô hình học tập đa phương thức, kết hợp linh hoạt giữa học trực tiếp, trực tuyến và trải nghiệm.

Đổi mới thực hành giảng dạy theo hướng kết hợp linh hoạt giữa dạy trực tiếp và trực tuyến, tăng cường tính tương tác và cá thể hóa hoạt động học tập. Theo đó, dạy trực tiếp tập trung thảo luận, xử lý tình huống; dạy trực tuyến khuyến khích tự học, nghiên cứu độc lập. Giảng viên cần chuẩn bị kỹ kế hoạch “blended learning”, sử dụng công cụ tương tác, như: Zoom, Quizizz, Mentimeter, Padlet… để tạo môi trường học tập hai chiều. Hoạt động nhóm, dự án học tập, mô phỏng tình huống nên được tăng cường để kích thích tư duy phản biện và sáng tạo. Công nghệ số giúp giảng viên theo dõi, đánh giá tiến độ học tập qua hệ thống quản lý (LMS), điều chỉnh phương pháp phù hợp với từng học viên, chuyển từ dạy học “đại trà” sang “thích ứng”.

Việc đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp dạy học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực, sát thực tiễn, phù hợp bối cảnh số cũng phải được tiến hành rà soát, tái cấu trúc chương trình, tinh giản, hiện đại, tăng tính ứng dụng và liên thông giữa các học phần. Nội dung cần hướng tới hình thành năng lực tư duy phản biện, giải quyết vấn đề, sáng tạo và tự học suốt đời. Hình thức tổ chức học tập linh hoạt, kết hợp giữa lớp học thực tế và không gian số, gắn lý luận với thực tiễn qua mô phỏng, dự án học tập, diễn đàn trực tuyến. Giảng viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn, áp dụng phương pháp dạy học tích cực như dạy học dự án, tình huống, phản biện, kết hợp công cụ AI, học tập phân tích dữ liệu (learning analytics). Đổi mới nội dung và phương pháp phải gắn chặt với nhiệm vụ chính trị, quốc phòng, an ninh, bảo đảm người học có bản lĩnh, tư duy số và năng lực thực hành trong xây dựng Quân đội hiện đại.

Bốn là, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, khoa, giảng viên và đơn vị ở các nhà trường quân đội.

Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, rõ ràng giữa các cơ quan chức năng trong các nhà trường quân đội. Đây là điều kiện tiên quyết để triển khai hiệu quả đổi mới giảng dạy trong bối cảnh chuyển đổi số. Cơ chế phối hợp phải bảo đảm tính thống nhất, liên thông giữa cơ quan chỉ đạo, các khoa giảng viên và đơn vị chức năng, tránh chồng chéo, phân tán. Đảng ủy, Ban Giám hiệu (Ban Giám đốc) các nhà trường quân đội giữ vai trò trung tâm chỉ đạo, điều phối, giám sát; cần ban hành quy chế phối hợp, quy trình làm việc và tiêu chí đánh giá rõ ràng. Cần thành lập Ban chỉ đạo chuyển đổi số làm đầu mối điều phối, kết nối, bảo đảm mọi hoạt động diễn ra thống nhất, hiệu quả. Phòng Đào tạo là cơ quan trung tâm tổ chức, kiểm tra hoạt động giảng dạy; Phòng Khoa học Quân sự và Ban Công nghệ Thông tin xây dựng hạ tầng kỹ thuật, nền tảng học tập số; các khoa chuyên môn đảm nhiệm nội dung học thuật và phương pháp giảng dạy.

Tăng cường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, học liệu số và công nghệ giảng dạy giữa các khoa, giảng viên và đơn vị. Việc trao đổi này giúp hình thành môi trường học thuật năng động, thúc đẩy đổi mới phương pháp giảng dạy và phát triển năng lực số. Các nhà trường quân đội cần tổ chức thường xuyên hội thảo, tọa đàm, diễn đàn học thuật trực tuyến để giảng viên chia sẻ kinh nghiệm, phương pháp dạy học tích cực, thiết kế bài giảng điện tử. Cần phát triển mạng lưới cộng đồng học tập chuyên môn, các nhóm chuyên môn liên khoa, tổ tư vấn kỹ thuật – sư phạm số để lan tỏa tri thức và hỗ trợ đồng đều năng lực công nghệ giữa các đơn vị. Việc chia sẻ học liệu, kinh nghiệm thực tiễn sẽ góp phần hình thành văn hóa hợp tác, tạo sức mạnh cộng hưởng trong các nhà trường quân đội.

Nâng cao hiệu quả phối hợp trong xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung và quản lý, sử dụng tài liệu giảng dạy. Cơ sở dữ liệu dùng chung là nền tảng của giáo dục số, bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và đồng bộ trong quản lý. Phòng Khoa học Quân sự và Ban Công nghệ Thông tin chịu trách nhiệm hạ tầng kỹ thuật, bảo mật; Phòng Đào tạo, các khoa chuyên ngành đảm nhiệm nội dung học liệu, tiêu chuẩn hóa và thẩm định chất lượng. Cơ sở dữ liệu phải được thiết kế theo hướng mở, tích hợp, cho phép truy cập, chia sẻ, tìm kiếm linh hoạt; bao gồm giáo trình điện tử, bài giảng số, tài liệu nghiên cứu, mô phỏng thực hành. Cần áp dụng công nghệ AI trong phân loại, tìm kiếm thông minh và Blockchain trong xác thực, bảo vệ quyền sở hữu học liệu. Việc quản lý phải nghiêm túc, có phân quyền, kiểm duyệt nội dung, đảm bảo an toàn thông tin và chuẩn mực chính trị.

Phối hợp chặt chẽ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực số và phương pháp giảng dạy hiện đại cho giảng viên. Cấp ủy, chỉ huy các nhà trường cần xác định rõ vai trò từng cơ quan: đơn vị công nghệ phụ trách kỹ năng nền tảng số, phần mềm dạy học; các khoa lồng ghép năng lực số vào nội dung chuyên ngành; trung tâm bồi dưỡng và viện nghiên cứu tổ chức tập huấn, hội thảo chuyên đề. Phối hợp dựa trên nguyên tắc “liên thông, chia sẻ, cộng hưởng”, bảo đảm tính hệ thống và cập nhật liên tục. Đồng thời, tăng cường hợp tác với các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp công nghệ để khai thác nguồn lực xã hội, tổ chức các khóa huấn luyện thực hành, giúp giảng viên nắm vững công cụ số, vận dụng sáng tạo trong giảng dạy.

Năm là, xây dựng hạ tầng mạng, thiết bị công nghệ và hoàn thiện cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động giảng dạy.

Các nhà trường quân đội cần ưu tiên phát triển đồng bộ mạng cáp quang tốc độ cao, mở rộng băng thông, bảo đảm đường truyền ổn định, đáp ứng nhu cầu học tập và quản lý trực tuyến. Đồng thời, xây dựng trung tâm dữ liệu dự phòng, cơ chế sao lưu tự động nhằm duy trì hoạt động đào tạo liên tục, an toàn. Việc đầu tư phải đáp ứng chuẩn an ninh mạng quốc gia, áp dụng tường lửa đa lớp, xác thực người dùng nhiều yếu tố, mã hóa dữ liệu và phân quyền truy cập chặt chẽ. Cần ban hành quy chế quản lý, giám sát hệ thống, coi bảo mật thông tin là trách nhiệm chung của cán bộ, giảng viên và bộ phận kỹ thuật, bảo đảm mạng vận hành hiệu quả, an toàn, tiết kiệm và thân thiện.

Cần đầu tư hệ thống thiết bị tiên tiến tại các giảng đường như bảng tương tác, máy chiếu, camera, micro thu âm, thiết bị ghi hình, truyền phát trực tuyến, hỗ trợ dạy học kết hợp và xây dựng bài giảng e-learning. Mỗi giảng viên cần được trang bị máy tính cấu hình cao, thiết bị lưu trữ an toàn, kết nối mạng ổn định. Việc đầu tư phải có lộ trình, ưu tiên đơn vị có khả năng áp dụng cao, gắn với kế hoạch bảo trì, nâng cấp thường xuyên, bảo đảm thiết bị luôn sẵn sàng và tương thích hệ thống.

Xây dựng, hoàn thiện và cập nhật thường xuyên cơ sở dữ liệu số hóa phục vụ giảng dạy. Trong đó, cần số hóa toàn bộ học liệu, giáo trình, tài liệu tham khảo, kết quả nghiên cứu, hồ sơ giảng viên và học viên theo hướng chuẩn hóa, liên thông, dễ truy xuất. Các nhà trường quân đội tập trung xây dựng kho học liệu số mở, cho phép giảng viên, học viên khai thác, đóng góp và chia sẻ tài nguyên học tập. Dữ liệu phải được cập nhật thường xuyên, đảm bảo chính xác, tin cậy, có giá trị học thuật. Đồng thời, phát triển các phần mềm quản trị cơ sở dữ liệu, công cụ tìm kiếm thông minh và ứng dụng AI hỗ trợ tra cứu, phân tích, đánh giá kết quả học tập, phục vụ hiệu quả công tác quản lý và kiểm định chất lượng.

Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng sử dụng hạ tầng và thiết bị công nghệ cho giảng viên, cán bộ quản lý, trong đó cần xây dựng chương trình bồi dưỡng thường xuyên về kỹ năng công nghệ, thiết kế bài giảng số, quản lý lớp học ảo, sử dụng phần mềm mô phỏng và công cụ đánh giá trực tuyến. Các khóa học nên tổ chức linh hoạt, theo cấp độ, kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến gắn thực hành với chia sẻ kinh nghiệm. Bên cạnh đó, cần tổ chức các diễn đàn, câu lạc bộ công nghệ giáo dục, cuộc thi bài giảng số để thúc đẩy tinh thần đổi mới. Cán bộ quản lý cũng phải được bồi dưỡng kỹ năng giám sát, đánh giá hiệu quả vận hành hạ tầng, bảo đảm sử dụng công nghệ thống nhất, an toàn và hiệu quả.

Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2019). Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2019 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
2. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Cục Nhà trường – Bộ Tổng tham mưu (2023). Kỷ yếu hội thảo tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số đến giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn trong nhà trường quân đội. Hà Nội.
4. Quân ủy Trung ương (2022). Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội trong tình hình mới.
5. Quân ủy Trung ương (2025). Nghị quyết số 3488-NQ/QUTW ề đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong Quân đội.
6. Nâng cao năng lực giảng dạy cho đội ngũ giảng viên trẻ các môn khoa học xã hội và nhân văn ở nhà trường quân đội trong bối cảnh chuyển đổi số. https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/12/12/nang-cao-nang-luc-giang-day-cho-doi-ngu-giang-vien-tre-cac-mon-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van-o-nha-truong-quan-doi-trong-boi-canh-chuyen-doi-so/