Liêm chính để phục vụ: các biểu hiện, vai trò và một số giải pháp xây dựng Chính phủ liêm chính

PGS.TS. Trần Thị Thanh Thủy
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Chính phủ liêm chính là Chính phủ luôn nhận thức, định vị đúng bản thân và hành động đúng phận sự; hành động theo pháp luật; rõ ràng công – tư; tiết kiệm, không lãng phí; khiêm tốn, luôn lắng nghe và cầu tiến bộ. Để xây dựng Chính phủ liêm chính, cần ưu tiên một số giải pháp, như: giáo dục và thực hành liêm chính trong toàn xã hội; hoàn thiện thể chế và phòng, chống tham nhũng; cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; phát huy vai trò của truyền thông đại chúng; chuyển đổi số một cách thực chất và hiệu quả và lãnh đạo các cấp thực hành liêm chính để làm gương.

Từ khóa: Liêm chính, phục vụ, Chính phủ liêm chính, xây dựng chính phủ liêm chính.

1. Đặt vấn đề

Để hiện thực hóa tầm nhìn phát triển vì một Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc cần có các nỗ lực mang tính hệ thống, trong đó có yêu cầu “xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả,…” và xây dựng được đội ngũ cán bộ, viên chức “yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới” như trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng.

“Liêm” được hiểu một cách phổ biến là trong sạch, không tham lam, còn “chính” là ngay ngắn, đúng đắn, phù hợp đạo lý. Từ những thuật ngữ đời thường, một phạm trù đạo đức – chính trị quan trọng trong văn hóa Á Đông, đặc biệt trong tư tưởng Nho giáo gắn liền với hình tượng người quân tử, người cầm quyền ngay thẳng và trong sạch,… liêm chính được trông đợi trở thành phẩm chất phổ biến của chính quyền và của người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý khi hành động công vụ một cách ngay thẳng, trong sạch, không lợi dụng vị trí để vụ lợi, không thiên vị, giữ gìn liêm chính chính trị, liêm chính hành chính,…

Theo đó, liêm chính cần bắt đầu từ nhận thức và được đánh giá đầy đủ ở hành động; sử dụng một hệ thống các phương thức, công cụ, biện pháp và cơ chế; với đa mục tiêu, nhưng trước nhất là phòng, chống, ngăn ngừa các hành vi sai trái. Cũng theo đó, liêm chính không phải là một lựa chọn mà là một điều kiện, một trách nhiệm; không chỉ ở cấp độ hành vi cá nhân mà tiếp cận của một hệ thống.

2. Các biểu hiện của một Chính phủ liêm chính

(1) Chính phủ liêm chính hiểu đúng, định vị đúng bản thân và hành động đúng phận sự.

Liêm chính, trước nhất là ngay ngắn, đúng đắn, là đạt đến chuẩn mực, do đó, liên quan đến định vị đúng bản thân. Chính phủ liêm chính được hình thành và vận hành dựa trên phân tích về lịch sử hệ thống (quốc gia, chính trị, hành chính, xã hội), bối cảnh trong nước và ngoài thế giới để hiểu đúng và làm đúng vị trí, vai trò, trông đợi, phận sự của xã hội đối với cơ quan đứng đầu của hệ thống hành chính nhà nước. Hiểu đúng, tự định vị đúng bản thân là cơ sở để chính phủ xác định triết lý, mục tiêu hành động, cả ngắn hạn và dài hạn; lựa chọn chiến lược, lộ trình hoạt động và đầu ra trông đợi phù hợp với sứ mệnh và sự trông đợi của xã hội.

Tuy nhiên, hành vi cá nhân, quá trình ra quyết định, thực hiện thủ tục hành chính đều có thể bị lạm dụng một khi Chính phủ và các đơn vị cấu thành không định vị đúng về bản thân. Định vị sai về bản thân có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, như: thiếu thông tin; thiên kiến – cố tình chỉ hiểu theo cách mình muốn; thiếu thông tin về cộng đồng, xã hội, doanh nghiệp… có thể dẫn tới quan trọng hóa vai trò của bản thân và vi phạm liêm chính, tự cho phép bản thân làm bất cứ điều gì miễn là không bị “bắt tận tay”. Thiên kiến về công dân, cộng đồng có thể dẫn đến việc xem họ và xã hội như phía đối lập, đối đầu, dẫn đến thái độ đề phòng, đối kháng và vi phạm liêm chính theo hướng “vun vén” cho bản thân để phòng khi “mưa bão” – khi bị cộng đồng, xã hội quay lưng. Nói cách khác, mọi sự trong sạch trong hoạt động của Chính phủ bắt đầu bằng việc hiểu đúng và tự định vị đúng trong mối quan hệ với xã hội.

(2) Chính phủ liêm chính hành động theo pháp luật.

Chính phủ không chỉ tham gia xây dựng, vận hành hệ thống pháp luật, quy tắc hành xử mà còn trực tiếp và ngay ngắn thực hành liêm chính, tôn trọng pháp luật, hành động chuẩn chỉnh (đối lập với thói tự do vô độ, xem thường pháp luật). Đặc biệt, bản chất hoạt động của Chính phủ liên quan đến quá trình chính sách – một quá trình liên tục, phức tạp trải ra trong thời gian dài, liên quan đến nhiều lợi ích, nhiều người tham gia và có thể thay đổi theo thời gian”1, cho nên thực hành liêm chính cần được thực hành xuyên suốt quá trình này.

Tuy nhiên, sự bất liêm trong hoạt động của Chính phủ có thể xuất hiện ở bất cứ giai đoạn nào và có thể xuất hiện ngay từ khâu nhận diện vấn đề chính sách. Thông tin – với tư cách là một nguồn lực công – càng ngày càng trở nên quan trọng hơn trong nền kinh tế tri thức, trong một khu vực công trên toàn cầu ngày càng có xu hướng ra quyết định dựa trên dữ liệu. Việc che giấu, bóp méo, thiên vị thông tin để chọn một vấn đề xã hội không xứng đáng trở thành một ưu tiên chính sách và can thiệp chính sách thay vì việc thực hiện đầy đủ các công cụ để sàng lọc, đánh giá vấn đề – hiện tượng và bản chất, đưa ra những giả thuyết chính sách ban đầu cũng như việc dự báo các tác động chính sách. Tương tự, khâu thực thi và đánh giá chính sách cũng có thể được tiến hành nhưng không tuân thủ đầy đủ và thực chất các yêu cầu.

(3) Chính phủ liêm chính rõ ràng công – tư.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, liêm chính là không đem của công thành của tư, cụ thể là: “Tuyệt đối không đem của công dùng vào việc tư. Không động đến một cái kim, một sợi chỉ của dân. Khi đến đóng, lúc kéo đi, phải giữ gìn nhà, vườn của dân cho sạch sẽ. Mua bán phải công bình. Mượn cái gì phải trả tử tế. Hỏng cái gì phải bồi thường…”2. Theo Người, nạn tham ô, thói “đục khoét của Nhân dân”, có thể hiểu chung là “ăn cắp của công làm của tư”, là “tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung, của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình”, “ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”3. Transparency International (2023)4 đưa ra một quan niệm được chấp nhận rộng rãi trên toàn cầu về tham nhũng là sự lạm dụng quyền lực được trao/ủy thác vì lợi ích cá nhân.

Vì vậy, một Chính phủ liêm chính sẽ thiết lập được hệ thống quy định rõ ràng ranh giới công – tư, cả về quyền lợi và trách nhiệm; chỉ ra các nguy cơ xung đột lợi ích, các trường hợp dễ nhầm lẫn, khó phân xử và quy định các biện pháp xử lý tương ứng với vi phạm.

Chính phủ liêm chính không tạo ra cơ hội đặc quyền, đặc lợi: mọi đơn vị, cá nhân thuộc chính phủ không được hưởng đặc quyền, đặc lợi, nhất là vật chất. Bên cạnh đó, lợi ích công không thay thế hoặc phủ nhận lợi ích tư mà lựa chọn, phản ánh những khía cạnh, những vấn đề có tính đại diện cho đa số và lâu dài; để hài hòa lợi ích công với quyền và lợi ích cụ thể và đặc thù của công dân, địa phương…

Chính phủ liêm chính, nói một cách dễ hiểu là không “trộm cắp” – nhỏ là nhặt nhạnh tài sản công; nhỡ là nhũng nhiễu, vòi vĩnh; lớn là tham ô và tinh vi là tham nhũng chính sách khi các chính trị gia, quan chức chính phủ dùng “đặc quyền” công vụ của họ để tiếp cận, sử dụng một cách bất hợp pháp các nguồn lực công để mang lại lợi ích cho cá nhân hoặc nhóm “cánh hẩu”.

Các nguồn lực công bị lạm dụng có thể là thông tin để can thiệp vào việc cho ra một chính sách đã bị “nắn dòng”, trì hoãn việc ra một quyết định nào đó hoặc kéo dài đời sống của một chính sách (mà đúng ra đã đến lúc phải khai tử). Kiểm soát nguồn lực công không chỉ quan tâm bao gồm công sản và tài chính công mà còn là cộng đồng và đội ngũ cán bộ, công chức.

Một trong những đặc quyền quan trọng nhất của lãnh đạo, quản lý, trong mọi khu vực cả công – tư hay phi lợi nhuận là được sử dụng đội ngũ. Đó có thể là con người khi việc sử dụng, bổ nhiệm… trên bề mặt là theo các tiêu chí, quy trình công khai, khách quan nhưng bản chất là sự ngụy biện cho cách dùng người theo bè phái để phục vụ lợi ích cục bộ. Đối với cộng đồng, cơ chế “Nhà nước và Nhân dân cùng làm” không đồng nghĩa với yêu cầu cộng đồng phải gánh vác hộ nhiệm vụ của Chính phủ. Đó có thể là các quy định về quy trình, thủ tục, trong đó sự “lắt léo”, ngụy biện được tận dụng để tạo ra sự khó hiểu đối với công dân hoặc doanh nghiệp. Kín đáo hơn, sự bất liêm trong hoạt động của Chính phủ là khi lạm dụng “tiếng nói” của dân, lạm dụng sức của dân.

(4) Chính phủ liêm chính thực hành tiết kiệm, không lãng phí.

Lãng phí – dù không mang yếu tố tham nhũng trực tiếp – vẫn là hình thức phi liêm chính thể chế, vì nó làm suy giảm niềm tin công chúng và hiệu quả phục vụ xã hội5.

Chính phủ liêm chính quản lý, sử dụng một cách có trách nhiệm và hiệu quả đối với mọi nguồn lực, phòng, tránh mọi hình thức lãng phí, bao gồm: công sản, từng đồng từ thuế của công dân, thời gian, công sức và cả niềm tin.

Cách tiết kiệm quan trọng và mang tính bản chất nhất của Chính phủ chính là hạn chế sai lầm chính sách và tùy tiện về quy trình thủ tục. Vì nếu sự lãng phí, xa xỉ trong trang hoàng một cơ quan, một sự kiện, có thể tính được thành tiền, nhưng sai lầm của một chính sách hay quá trình triển khai chính sách đó vào thực tiễn, có thể dẫn đến hệ lụy đa diện đến nhiều thế hệ, nhiều địa phương, thậm chí cả quốc gia với một cái giá phải trả có thể lũy tiến theo thời gian.

(5) Chính phủ liêm chính khiêm tốn, luôn lắng nghe và cầu tiến bộ.

Chính phủ liêm chính không chỉ được hiểu ở khía cạnh đạo đức – pháp lý mà còn là biểu hiện của văn hóa chính trị hiện đại – của một lối sống văn minh trong thực hành chức năng hành pháp. Chính phủ liêm chính hành động đúng đắn thì tất hành xử khiêm tốn, không háo danh, không tham địa vị, không tự khoe khoang bản thân mình, cơ quan mình; không tìm mọi cách để được tung hô, cũng không tìm mọi cách để tung hô cấp trên.

Khiêm tốn, theo nghĩa sâu xa nhất là trung thực, dám đối mặt với Nhân dân, với sự thật và với chính bản thân mình, với những gì mình còn cần cải thiện; luôn tự soi xét, dám nhận sai để cùng xã hội tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề công, để không ngừng cải thiện năng lực phục vụ. Đồng thời, chú trọng lắng nghe và sẵn sàng, cầu thị học hỏi, tự điều chỉnh và học hỏi liên tục là những giá trị nền tảng để giúp chính phủ không rơi vào chủ quan, quan liêu hay xa rời thực tế. Khiêm tốn, do vậy là biểu hiện của bản lĩnh lãnh đạo hiện đại, coi sự học hỏi là sức mạnh của quản trị.

Chính phủ liêm chính có sinh mạng từ Nhân dân nên không chỉ gần dân mà sống và “thở” cùng Nhân dân để có cơ sở phục vụ lợi ích và nguyện vọng của Nhân dân. Các mục tiêu cải cách hành chính có thể là khác nhau nhưng suy cho cùng, xuyên suốt các quyết sách, các chuyển biến vẫn phải là để nâng cao năng lực phục vụ xã hội, bảo đảm hài hòa đóng góp và lợi ích của cá nhân – tổ chức – xã hội trước mắt và lâu dài, tự nguyện và trách nhiệm. Nói cách khác, sự hài lòng của người dân, nhu cầu của doanh nghiệp, thế mạnh của doanh nghiệp làm động lực cải thiện quá trình quản trị công, tổ chức quá trình chính sách, thiết kế quy trình, thủ tục hành chính và cung ứng dịch vụ công. Do đó, Chính phủ cần chủ động đổi mới tư duy, liên tục cải tiến cơ chế lắng nghe xã hội.

3. Vai trò của xây dựng Chính phủ liêm chính ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Một là, vì bản chất và vai trò của hoạt động hành pháp là hệ thống hoạt động quyết định ý nghĩa và giá trị thực sự của các phương châm hành động của chính quyền “của dân, do dân, vì dân”. Mọi mục tiêu chính trị lớn, mọi quyết sách chính trị sáng suốt có thể đều chỉ dừng ở mức ý tưởng hoặc ở khâu tuyên truyền, phổ biến nếu không có một hệ thống hành pháp hoạt động hiệu quả để ban hành hệ thống chính sách hợp lý được chứa đựng trong hệ thống quy phạm pháp luật khoa học, có tính kiến tạo, rồi điều hành, tổ chức thực hiện chúng một cách bài bản, sáng tạo để tạo ra những kết quả thực, giá trị thực. Liêm chính, do vậy, là đầu vào cần có đối với một Chính phủ, một Nhà nước hay một hệ thống chính trị nói chung để việc sử dụng vị trí và các nguồn lực chính đáng được thực hiện một cách đúng đắn với mục tiêu đã đặt ra.

Hai là, liêm chính là thực hành một giá trị công trong xây dựng Nhà nước pháp quyền định hướng giá trị xã hội và bảo đảm niềm tin xã hội lâu bền. Liêm chính cùng với “tận tụy”, “trung thành”, “năng động để phục vụ”… là khía cạnh đạo đức của Chính phủ được trông đợi song hành với khía cạnh năng lực (như: năng lực hoạch định chiến lược, năng lực chính sách, năng lực huy động xã hội,…). Trong đó, đạo đức là yếu tố quyết định cần có năng lực hành động nào tương ứng, còn năng lực phản ảnh và hiện thực hóa các niềm tin, giá trị đạo đức được theo đuổi.

Ba là, liêm chính là cách Chính phủ thể hiện năng lực hiểu đúng mình, làm đúng vai trò của mình trong phát triển xã hội và đang không ngừng nỗ lực để xứng đáng với tính chính đáng của vai trò Hiến định cho Chính phủ.

Bốn là, liêm chính là một tiêu chí được nhiều bộ chỉ số đánh giá về năng lực quản trị trên toàn cầu sử dụng (như: Chỉ số quản trị toàn cầu (World Governance Index), Chỉ số đánh giá Môi trường kinh doanh (Doing business) các nguyên tắc Quản trị tốt,…) và Việt Nam cần đáp ứng để có sự tương thích về thể chế, năng lực,… khi tham gia các cơ chế toàn cầu.

Năm là, liêm chính là sự đáp ứng có trách nhiệm và chủ động với thời cuộc, nhất là bối cảnh cách mạng số hiện nay khi tính minh bạch của quá trình công vụ ngày càng cao, dẫn đến vừa cơ hội cho Chính phủ tự kiểm soát mình, vừa áp lực từ sự giám sát từ mạng xã hội.

4. Một số biện pháp xây dựng Chính phủ liêm chính

Xây dựng Chính phủ liêm chính trong bối cảnh ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh các nỗ lực có tính tổng hợp, đồng bộ với đổi mới xây dựng pháp luật và cải cách tư pháp; đồng bộ xây dựng chính phủ số, kinh tế số và xã hội số; thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

(1) Giáo dục và thực hành liêm chính trong toàn xã hội.

Giá trị công vụ không chỉ kế thừa các giá trị xã hội mà còn dẫn đường và làm gương cho các giá trị xã hội. Trước khi trở thành một bộ phận của nền hành chính, thực hiện chức năng của Chính phủ, họ là một thành viên xã hội, hít thở và lớn lên trong những gia đình cụ thể. Chính vì vậy, liêm chính không chỉ là một lời thề công vụ, một quy tắc xử sự công vụ mà cần được nuôi cấy, dưỡng dục từ trong mỗi gia đình, trong toàn xã hội.

Bên cạnh đó, sự tinh vi của tham nhũng chính sách ở các cấp độ, mức độ khác nhau mà kỳ vọng về sự hành xử “tế nhị” hay né tránh trong hệ thống có thể làm tê liệt khả năng phát hiện và tố cáo. Do đó, người dân liêm và chính sẽ có đủ hiểu biết để phân biệt giữa phận sự, chức trách của công chức với sự “gia ân” hay tận tâm vì lòng trắc ẩn mang tính cảm xúc. Xã hội liêm chính sẽ có cơ chế để thực hành, giám sát, động viên, thúc đẩy sự lãnh đạo có đạo đức, liêm chính chính trị và liêm chính hành chính, trong khi người dân “tham” hoặc bất liêm sẽ góp phần làm tha hóa công chức.

Chính vì vậy, cần thực hiện một số biện pháp:

Một là, giáo dục về liêm chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí vào mọi cấp học trong giáo dục, đào tạo chính thức cũng như giáo dục trong cộng đồng để hình thành thói quen và ngấm sâu vào nhận thức của mỗi cá nhân trước khi tham gia nền công vụ. Cần tuyên dương thích đáng những hành vi có tính liêm của mỗi người, đặc biệt là ngay từ trẻ em, ví dụ như hành động “nhặt được của rơi trả lại người đánh mất”, để rèn luyện liêm sỉ, tự trọng và sự tự kiểm soát bản thân từ bé.

Hai là, thực hành quyền làm chủ của Nhân dân, bồi dưỡng và phát huy năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội, ý thức dân chủ xã hội để Nhân dân thực hành quyền “biết” để “bàn” và “giám sát” trong quá trình hành chính, quá trình ra quyết định, đánh giá các thủ tục, dịch vụ hành chính. Đây vừa là yêu cầu có tính pháp lý của quá trình xây dựng pháp luật, vừa thực hành đánh giá, giám sát chính sách ngay từ đầu của quá trình chính sách để xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ.

Ba là, xây dựng Chính phủ liêm chính trên nền công khai, minh bạch, số hóa, quá trình chuyển đổi số cần được thực hiện hiệu quả, tạo cơ sở tốt hơn cho công khai, minh bạch các chủ trương, đường lối, chính sách đến người dân, chứ không chỉ dừng ở phục vụ các thủ tục hành chính một cách trơn tru, hiệu quả hơn. Đồng thời, cần bảo đảm an ninh mạng, bảo vệ thông tin cá nhân, an ninh quốc gia; bảo đảm các nguồn lực triển khai xây dựng chính phủ điện tử tiến đến chính phủ số; thiết lập cơ chế bảo đảm thực thi.

(2) Hoàn thiện thể chế và phòng, chống tham nhũng.

Một trong những nguyên nhân cơ bản của bất liêm là “Cơ chế kiểm soát quyền lực, công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được quan tâm đúng mức; luật pháp, cơ chế, chính sách còn nhiều kẽ hở, dễ để bị lợi dụng; việc thực thi pháp luật nói chung và các quy định của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng nói riêng ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa nghiêm”6.

Theo đó, để xây dựng Chính phủ liêm chính cần hoàn thiện hệ thống thể chế và văn hóa bảo đảm quyền lực công được sử dụng đúng đắn, minh bạch, có trách nhiệm và ít kẽ hở cho tham nhũng.

Trong ra quyết định lãnh đạo, quản lý và chính sách: để duy trì và phát huy giá trị liêm chính, cần trước nhất quan tâm đến nguồn lực công, sâu xa nhất là quyền hoạch định chính sách, ra quyết định, quyền được thiết lập các cơ chế phối hợp, hợp tác (nội bộ như liên ngành, liên tịch), với bên ngoài (như PPP). Cần cải thiện quy trình thu thập và xử lý thông tin, đưa ra công cụ về công khai, minh bạch thông tin phù hợp để hạn chế che giấu, bóp méo thông tin; can thiệp vào việc lựa chọn phương án chính sách, quyết định.

Cải thiện quy trình chính sách, xây dựng pháp luật: một nghiên cứu đánh giá chính sách phòng, chống tham nhũng của Việt Nam thể hiện trong Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 đã chỉ ra một số hạn chế của chính sách phòng, chống tham nhũng ở nước ta thể hiện ở nội dung chính sách, như: sự chưa tương thích giữa mục tiêu chính sách với vấn đề chính sách, giữa mục tiêu chung với mục tiêu cụ thể, giữa mục tiêu với các giải pháp và công cụ chính sách…; ở khâu thực hiện nội dung chính sách, như: có những giải pháp, công cụ chính sách chưa được cụ thể hóa hoặc bộc lộ bất cập nhưng chậm được khắc phục, sửa đổi, bổ sung; hệ thống giám sát, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chính sách còn thiếu chặt chẽ, hiện đại, chưa coi trọng vai trò phản biện của xã hội”7,…

Tham nhũng trong xây dựng chính sách, pháp luật là hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong quá trình xây dựng pháp luật để mang lại lợi ích không chính đáng cho cơ quan, tổ chức, địa phương, ngành nghề hoặc công tác quản lý nhà nước”, liên quan đến nhóm chủ thể cơ quan nhà nước được trao thẩm quyền xây dựng chính sách và nhóm đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách gây tác động nên nhóm thứ nhất để đem lại lợi ích cho nhóm mình8. Nói cách khác, tham nhũng trong hoạch định chính sách là một biểu hiện của tham nhũng chính sách mà nguyên nhân xuất phát từ yếu tố con người9.

Do đó, cần cải thiện khuôn khổ pháp luật về phòng, chống tham nhũng và lãng phí, đặc biệt lưu ý đến trách nhiệm, thẩm quyền, phạm vi hoạt động của công chức liên quan đến các cơ hội “công” và nguồn lực “công” để giảm các kẽ hở pháp luật, để ngăn chặn hành vi tham nhũng, tiêu cực. Lấy ví dụ như, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện chỉ số MOBI – sử dụng 5 tiêu chí là tính sẵn có, tính kịp thời, tính đầy đủ, tính thuận tiện và tính liên tục của 6 loại tài liệu bắt buộc phải công khai theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 để đánh giá mức độ công khai ngân sách các bộ và các cơ quan trung ương.

Cần phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức nghề nghiệp trong phản biện chính sách; phát huy tốt hơn các kênh lấy ý kiến xã hội về các dự thảo chính sách, pháp luật; kiểm soát chặt chẽ hơn hành vi của những người “vận động hành lang” tìm cách gây ảnh hưởng đến chính sách vì lợi ích cá nhân, cục bộ. Bên cạnh đó, cần cải thiện cơ chế thu hồi, sung công và sử dụng tài chính, tài sản từ các vụ án tham nhũng, lãng phí, nhất là những vụ án lớn để tăng sức răn đe.

(3) Cải cách thủ tục hành chính.

Chính phủ liêm chính không chỉ bằng lời nói mà phải bằng hành động cụ thể, thiết thực; trong đó, có cải cách thủ tục hành chính. Mục tiêu của cải cách thủ tục không chỉ là rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, giảm chi phí tuân thủ cho người dân và doanh nghiệp mà còn giúp các quy trình, thủ tục từ là điều kiện ràng buộc và kiểm soát hành vi được bổ sung giá trị thành điều kiện khích lệ tuân thủ, đổi mới và sáng tạo trong một nền hành chính hiện đại, minh bạch và hiệu quả. Do đó, cần gắn chặt với chuyển đổi số, tiếp tục cải thiện việc công khai quy trình, thủ tục; cải thiện tính liên thông, đồng bộ, thống nhất về thủ tục giữa các cấp, các ngành. Sự liên thông này không chỉ là yếu tố kỹ thuật mà còn là vấn đề thể chế và quản trị10. Do đó, kéo theo yêu cầu hoàn thiện cơ chế phân định chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan và cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu.

Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện và phát huy vai trò của một số chỉ số về quản trị, như: Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), Chỉ số môi trường kinh doanh (Doing business), Chỉ số cạnh tranh toàn cầu… trong đánh giá mối quan hệ giữa năng lực quản trị công (trong đó, có các chiều cạnh liên quan đến liêm chính) với các động thái, tác động đầu tư, xếp hạng trong quốc gia và trên thế giới.

(4) Xây dựng đội ngũ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm là tự mình phải “chính” trước mới giúp được người khác chính. Mình không chính mà muốn người khác chính là vô lý. Người chỉ ra rằng, bất kỳ ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì, sự hoạt động của một người trong xã hội có thể chia làm 3 mặt: đối với mình, đối với người, đối với việc. Trong đó, đối với mình thì không được tự kiêu, tự đại; đối với người thì phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ, không được nịnh hót người trên, không nên xem khinh người dưới11; nhưng không phải ai ta cũng đối xử như vậy mà phải trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân; đối với công việc, phải đặt việc công lên trước việc tư, việc nước lên trên việc nhà. Khi đã nhận công việc thì phải có trách nhiệm, có quyết tâm, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm; thực hiện công việc sao cho thật hiệu quả; phải có sáng kiến, phải có kế hoạch, phải cẩn thận, phải quyết làm cho thành công.

Phát triển năng lực đội ngũ tiếp tục có ý nghĩa quan trọng để Chính phủ không chỉ liêm chính mà còn hiệu quả. Muốn có đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, từ tuyển dụng đến bố trí, sử dụng cán bộ, công chức, trong đó tập trung vào những việc sau:

Thứ nhất, cần hoàn thiện Đề án vị trí việc làm và mô tả công việc một cách khoa học, trong đó cần dự báo được nhu cầu hành chính trong tương lai khi nhu cầu và mức độ phát triển của xã hội đã đến tầm cao mới; khi công nghệ và công nghệ số đã tham gia mạnh mẽ vào tái tạo dạng xã hội. Hệ thống mô tả công việc khoa học sẽ là cơ sở để trả lương theo kết quả thực thi cho tương xứng với công trạng, từ đó, giúp giảm thiểu mong muốn lợi dụng vị trí, thẩm quyền để vun vén cá nhân.

Thứ hai, có các biện pháp tài chính, nghiệp vụ, tinh thần hợp lý, các biện pháp bảo vệ cán bộ, công chức trong giai đoạn mới chuyển sang mô hình chính quyền địa phương 2 cấp khi họ thực thi trong một địa bàn mới, lượng công việc vượt trội, tính chất đa nhiệm gia tăng,…

Thứ ba, tiếp tục thực hiện tinh giản biên chế trong mối quan hệ chặt chẽ với quản lý hệ thống việc làm xã hội, tạo sự liên thông lực lượng lao động xã hội giữa khu vực công – tư vì các mục tiêu lâu dài. Tìm kiếm cơ chế thu hút người có tài năng, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, nhà khoa học và chuyên gia vào làm việc cho Chính phủ và hệ thống chính trị nói chung, trong đó có thể cân nhắc việc mời một tổ chức độc lập tham gia xét tuyển. Đồng thời, có tiêu chí sàng lọc khoa học và kiên quyết hơn với những cán bộ, công chức không đáp ứng được yêu cầu công việc.

(5) Phát huy vai trò của báo chí, truyền thông.

Báo chí truyền thông – với tư cách là một quyền lực mềm – giữ vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng và củng cố liêm chính của Chính phủ. Truyền thông tự do và có trách nhiệm là “điều kiện thiết yếu để tăng cường tính minh bạch, giải trình và chống tham nhũng” trong quản trị quốc gia12.

Để xây dựng Chính phủ liêm chính, giảm nguy cơ lạm quyền và tham nhũng, báo chí và các nền tảng số và mạng xã hội cần được tiếp cận thông tin hợp lý để đồng hành với quá trình ra quyết định và thực thi chính sách. Nhờ đó, người dân có thể giám sát và phản hồi kịp thời13. Cần tiếp tục phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, truyền thông trong việc phát hiện đưa ra ánh sáng những biểu hiện tiêu cực, những vụ án tham nhũng, lãng phí lớn.

Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả, báo chí và truyền thông phải hoạt động trên nền tảng đạo đức nghề nghiệp và chuẩn mực thông tin. Báo chí chính thống cần hạn chế đưa tin một chiều, cần rõ ràng cả “xây”, “chống” và tự phê bình. Đồng thời, các nền tảng xã hội cần được quản trị để trở thành một kênh đối thoại và phản ảnh hai chiều hơn là một “chỗ” để trút giận vào cơ quan công quyền hoặc tuyên truyền phản bác, chống phá chính quyền.

(6) Chuyển đổi số một cách thực chất và hiệu quả.

Chuyển đổi số trong khu vực công giúp tăng cường tính minh bạch, truy xuất và trách nhiệm giải trình thông qua việc số hóa quy trình, công khai dữ liệu và giảm thiểu sự can thiệp chủ quan của con người trong ra quyết định14. Do đó, chuyển đổi số không chỉ là công cụ quản trị hiện đại mà còn là cơ chế bảo vệ liêm chính công, góp phần xây dựng chính phủ liêm chính, hiệu quả, có trách nhiệm và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.

Một Chính phủ liêm chính và tư duy phục vụ được củng cố khi các quy trình hành chính, bao gồm hoạch định, triển khai chính sách và các thủ tục phục vụ công dân và doanh nghiệp được công bố và giám sát công khai trên nền ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data).

Chính vì vậy, cần thực hiện chuyển đổi số một cách thực chất để công nghệ không trở thành cứu cánh mà cũng không phải là chỗ để đổ lỗi. Điều này dẫn đến một vấn đề nan giải khi phải tiến hành đồng thời ba việc là vừa chuẩn hóa dữ liệu đầu vào để đồng bộ hóa tiến đến số hóa dữ liệu và số hóa quy trình, vừa phải vận hành ngay hệ thống đó để đáp ứng kịp thời nhu cầu xã hội, trong khi tiếp tục cải cách các quy trình làm việc và thủ tục hành chính. Lựa chọn các lĩnh vực, các thủ tục ưu tiên để chuyển đổi số trước và thử nghiệm vai trò của các doanh nghiệp công nghệ tư nhân, có rút kinh nghiệm có thể là một trong những lựa chọn đối với vấn đề này.

(7) Lãnh đạo các cấp thực hành liêm chính để làm gương.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “mỗi người đều phải nhận ra sự tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước với dân. Vì lẽ đó, hơn ai hết, cán bộ phải “thực hành liêm khiết”15 để làm tấm gương cho quần chúng noi theo. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI cũng ghi rõ: “Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến cơ sở và từng đảng viên, trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”16.

Để giáo dục, thuyết phục và chuyển liêm chính thành một “tính cách”, một gen văn hóa trong công vụ và trong xã hội, đương nhiên, trước nhất, đội ngũ lãnh đạo, quản lý cần gương mẫu, đi đầu trong tu dưỡng và thực hành liêm chính ở mọi lúc, mọi nơi. Để làm gương và dẫn dắt xã hội thực hành liêm chính, lãnh đạo các cấp trong Chính phủ và chính quyền các cấp cần: (1) Thực hành lối sống giản dị, tiết kiệm. (2) Thực hành tốt việc công khai thu nhập: cần thực hiện nghiêm chế độ công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình về tài sản của cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. (3) Thống nhất lời nói và hành động về liêm chính. (4) Tự soi mình vào dư luận xã hội và đạo đức xã hội để có cơ sở lựa chọn một triết lý sống và triết lý nghề nghiệp đúng đắn.

Chú thích:
1. Madlen, Serban (2015). “Supporting public policy making through policy analysis and policy learning”. European Training Foundation, tr. 4.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 135.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 355.
4. Transparency International (2023). “What is corruption?”. https://www.transparency.org/en/what-is-corruption.
5. UNDP (2020). Integrity, Transparency and Accountability in Public Administration. New York: United Nations Development Programme.
6. Nguyễn Phú Trọng (2023). Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 128.
7. Nguyễn Thị Thu Nga (2020). Đánh giá chính sách trong Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng. Tạp chí Thanh tra, số 2, tr. 16 – 19.
8. Phòng, chống tham nhũng trong xây dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam. https://mt.gov.vn/vn/tin-tuc/78539/phong–chong-tham-nhung-trong-xay-dung-chinh-sach–phap-luat-o-viet-nam.aspx.
9. Phòng, chống tham nhũng trong xây dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam hiện nay – Một số thách thức và giải pháp thực hiện. https://danchuphapluat.vn/phong-chong-tham-nhung-trong-xay-dung-chinh-sach-phap-luat-o-viet-nam-hien-nay-mot-so-thach-thuc-va-giai-phap-thuc-hien.
10. Digital Government Review of Viet Nam: Towards Data-Driven Public Sector. https://doi.org/10.1787/1c258f55-en.
11, 15. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 130, 127.
12. UNESCO (2020). Journalism. Press Freedom and Transparency in Governance. Paris: UNESCO Publishing.
13. OECD (2017). OECD Recommendation on Public Integrity. Paris: OECD Publishing.
14. OECD (2020). Digital Government Index: 2019 Results. Paris: OECD Publishing.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 253.