Phát triển doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam dưới tác động của quy tắc xuất xứ trong hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU

ThS. Nguyễn Thị Hạnh
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên

(Quanlynhanuoc.vn) – Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có tác động mạnh mẽ tới thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam nói riêng. Dưới tác động của quy tắc xuất xứ trong Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU, các hoạt động khai thác, chế biến và xuất khẩu thủy sản của doanh nghiệp có những thay đổi đáng kể. Bài viết đánh giá tác động của quy tắc xuất xứ trong Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU đối với phát triển xuất khẩu thủy sản Việt Nam và chỉ ra các nguyên tắc phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam dưới tác động của quy tắc xuất xứ trong Hiệp định thương mại tự do Việt Nam EU.

Từ khóa: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU, EVFTA, quy tắc xuất xứ, doanh nghiệp, xuất khẩu thủy sản.

1. Đặt vấn đề

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia đàm phán, ký kết 19 hiệp định thương mại tự do, trong đó, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (European – Vietnam Free Trade Agreement – EVFTA) là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có tác động mạnh mẽ tới xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nói chung và xuất khẩu thủy sản Việt Nam nói riêng. Thực tiễn cho thấy, từ năm 2020 đến nay, dưới tác động của quy tắc xuất xứ trong EVFTA, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã tận dụng được không ít những thời cơ nhưng cũng gặp phải những thách thức. Bài viết đưa ra các nguyên tắc để các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng những ưu đãi của quy tắc xuất xứ trong EVFTA.

2. Vai trò của doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản

Doanh nghiệp thủy sản là những doanh nghiệp, hợp tác xã khai thác thủy sản biển, nội địa; nuôi trồng thủy sản biển, nội địa; sản xuất con giống, chế biến bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản. Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản bao gồm các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh liên quan đến việc sản xuất, mua bán và xuất khẩu các sản phẩm từ nguồn tài nguyên thủy sản và các sản phẩm chế biến từ thủy sản. Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế – xã hội.

Một là, giải quyết việc làm, gia tăng thu nhập và cải thiện mức sống cho người dân. Cũng giống như hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức sản xuất – kinh doanh khác, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đã giải quyết việc làm cho một bộ phận lớn lao động trong các nền kinh tế, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển1. Ở các nước đang phát triển, nguồn nhân công khá dồi dào nhưng đặc điểm chung là trình độ thuộc nhóm trung bình thấp. Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản, bao gồm cả các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp trung gian và đặc biệt là các doanh nghiệp khai thác thủy sản đã mang lại cơ hội việc làm và cải thiện thu nhập cho đông đảo người lao động. Nhờ đó, mức sống của người dân được cải thiện.

Hai là, gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, thu ngoại tệ và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xuất khẩu thủy sản đem về lượng ngoại tệ lớn cho các nước từ việc bán sản phẩm ra thị trường quốc tế. Hơn nữa, một số nước đang phát triển còn nhận được nguồn ngoại tệ lớn từ việc cho thuê quyền đánh bắt cá trên biển, đặc biệt là cho EU và Nhật Bản2. Nguồn ngoại tệ này không chỉ giúp các nước đang phát triển có thể gia tăng lượng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế mà còn giúp các nước này có thêm điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và hiệu quả. Ngoài ra, xuất khẩu thủy sản còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong các vùng ven biển và vùng nông thôn, nơi mà nguồn lợi tự nhiên và tiềm năng nuôi trồng thủy sản phong phú. Điều này góp phần giảm bớt khoảng cách phát triển giữa các khu vực trong các quốc gia nói riêng và trên thế giới nói chung.

Ba là, bảo đảm an ninh lương thực. Ngoài tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân thì xuất khẩu thủy sản còn góp phần bảo đảm an ninh lương thực cả trực tiếp và gián tiếp. Theo UNCTAD, ở nhiều nước kém phát triển, như: Bangladesh, Campuchia, Gambia, Guinea, Sierra và Togo, cá và các loại thủy sản cung cấp hơn một nửa lượng protein động vật được tiêu thụ3. Hơn nữa, đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, ngành Thủy sản là một phần quan trọng của ngành Nông nghiệp, góp phần cân đối và tăng cường sản xuất nông nghiệp.

Bốn là, cải thiện tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Các hoạt động liên quan đến xuất khẩu thủy sản có thể làm giảm bớt tỷ lệ nghèo đói ở các quốc gia. Mặt khác, việc tham gia vào các hoạt động đánh bắt tôm vùng ven biển ở một số quốc gia đã thu hút một lượng lớn phụ nữ địa phương4. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB), có tới hơn 47% những người tham gia vào nghề cá trên thế giới là phụ nữ, tùy thuộc vào đặc điểm của từng quốc gia, chẳng hạn, ở Nigeria là 73%, Ấn Độ: 72%, Campuchia: 57%, Senegal: 32% và 19% ở Trung Quốc5.

Năm là, phát triển thương mại quốc tế, thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu thủy sản góp phần làm tăng tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của các nền kinh tế. Các sản phẩm thủy sản xuất khẩu có nguồn thị trường tiêu thụ ổn định, một mặt, giúp gia tăng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm cán cân thương mại quốc tế, đem về lượng ngoại tệ lớn cho các nước từ việc bán sản phẩm ra thị trường quốc tế. Mặt khác, xuất khẩu thủy sản phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các hoạt động dịch vụ quốc tế, như: bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, thanh toán quốc tế, vận tải quốc tế… Ngược lại, cùng với sự phát triển của các hoạt động kinh tế đối ngoại thì hoạt động xuất khẩu thủy sản trong nước sẽ có điều kiện để mở rộng và phát triển theo. Như vậy, thông qua xuất khẩu thủy sản, các quốc gia có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới ngày càng sâu rộng, có thể phát huy tối đa lợi thế của mình trong chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu.

3. Thực trạng phát triển doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản dưới tác động của quy tắc xuất xứ trong EVFTA

Gia tăng giá trị kim ngạch xuất, nhập khẩu. Ngành Thủy sản Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới với giá trị xuất khẩu ngày càng tăng. Theo số liệu của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, trong giai đoạn 2010 – 2020, giá trị sản xuất ngành Thủy sản đạt 5,2%/năm. Hiện nay, với những ưu đãi từ EVFTA, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có nhiều lợi thế và cơ hội cạnh tranh hơn trong xuất khẩu sang thị trường EU. Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU đạt 958,7 triệu USD, chiếm 14,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Năm 2021, đạt trên 1,077 tỷ USD, tăng 12,3% so với năm 2020; đồng thời, chiếm 12% thị phần xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, đứng vị trí thứ ba, xếp sau Hoa Kỳ và Trung Quốc6.

Số liệu tổng hợp từ Biểu đồ 1 cho thấy, EU là thị trường xếp thứ tư với giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD năm 2023 và tăng lên thành 1.309,5 tỷ USD vào năm 20247. Nguyên nhân chính của sự tăng trưởng cao liên tiếp này được cho là do cú huých lớn đến từ EVFTA.

 Mở rộng thị trường xuất khẩu. Hiện nay, thủy sản của Việt Nam đã có mặt ở hơn 170 quốc gia trên thế giới, trong đó top 6 thị trường lớn nhất, gồm: Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN chiếm tỷ trọng chi phối, từ 78 – 83% theo xu hướng tăng dần lên trong những năm gần đây8.

Biểu đồ 2 cho thấy, ngoài các thị trường truyển thống là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc thì EU là thị trường lớn của thủy sản Việt Nam. Với 27 quốc gia thành viên, EU hứa hẹn là thị trường đầy tiềm năng và triển vọng cho phát triển thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.

Đa dạng chủng loại và cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu. Mặc dù có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi cho khai thác và nuôi trồng thủy sản nhưng các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của thủy sản Việt Nam vẫn chỉ tập trung vào tôm, cá tra và một số loại hải sản nhất định. Từ năm 2020, sau khi EVFTA có hiệu lực đã có những tác động nhất định đến cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài các sản phẩm tôm, các sản phẩm thủy sản xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao, còn có: cá tra, các ngừ, cua, ghẹ, mực, bạch tuộc, các loại nhuyễn thể và surimi. Tính đến hết năm 2024, cá ngừ và cá tra có sự tăng trưởng khá cao và ổn định, lần lượt đạt 196,989 triệu USD và 176,245 triệu USD. Nghêu và tôm sú cũng có sự gia tăng, trong đó nghêu tăng mạnh 17%, đạt 68,084 triệu USD. Đáng chú ý nhất là surimi tăng trưởng tới 62,6%, từ 10,845 triệu USD năm 2023 lên 17,637 triệu USD năm 20249.

Việc phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam hiện nay vẫn còn những tồn tại, tạo ra những rào cản trong việc tận dụng những ưu đãi mà quy tắc xuất xứ mang lại.

Tỷ lệ nội địa hóa thấp, thiếu nguyên liệu trong nước. Việc tuân thủ quy tắc xuất xứ đòi hỏi sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam phải có nguồn gốc rõ ràng từ Việt Nam hoặc nguyên liệu phù hợp theo quy định. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu trong nước hiện nay mới chỉ đáp ứng khoảng 40 – 45% nhu cầu chế biến10. Nhiều doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, Ấn Độ… khiến doanh nghiệp khó xác nhận xuất xứ đủ điều kiện hưởng ưu đãi.

Thực tế cho thấy, doanh nghiệp phải chứng minh xuất xứ qua giấy tờ, quy trình xác minh, kiểm tra… gây tốn thời gian và chi phí. Hơn nữa, việc xin Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), cụ thể là form EUR.1 gặp nhiều rào cản: quá trình cấp C/O kéo dài vì phải gắn liền với các kiểm định liên quan đến IUU (đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo, không được quản lý) hay việc khai báo mã HS (Hệ thống mô tả và mã hóa hàng hóa) dễ bị từ chối do khác biệt giữa quy định Việt Nam và EU. Mặt khác, quy tắc xuất xứ trong EVFTA yêu cầu các tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn về môi trường, lao động và an toàn thực phẩm so với WTO. Việc thực hiện các tiêu chuẩn này làm tăng đáng kể chi phí sản xuất, làm giá thành xuất khẩu tăng, giảm cạnh tranh so với các đối thủ, như: Ấn Độ hay Ecuador11.

Vấn đề thẻ vàng IUU vẫn tiềm ẩn rủi ro lớn. Tất cả những hải sản của Việt Nam xuất sang EU đều sẽ bị kiểm soát 100%, trong khi trước đó kiểm soát có xác suất. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho ngành Thủy sản Việt Nam nói chung và các hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam nói riêng. Nếu không cải thiện sớm, nguy cơ thẻ vàng chuyển thành thẻ đỏ và việc cấm xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào EU có thể xảy ra. Trong bối cảnh EVFTA có hiệu lực thực thi, quy tắc xuất xứ càng thêm rành mạch lại tạo thêm áp lực cho doanh nghiệp, vì EU sẽ kiểm soát chặt chẽ xuất xứ theo từng lô hàng.

Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu đóng vai trò gia công sơ chế, ít phát triển thương hiệu hoặc bảo hộ nhãn hiệu tại EU. Có đến 90% sản phẩm xuất khẩu mang nhãn hàng nhập khẩu, làm giảm giá trị gia tăng và nhận diện nguồn gốc Việt Nam. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam là các doanh nghiệp nhỏ, vẫn còn yếu trong quản trị, theo dõi nguồn gốc và thiếu năng lực thương mại quốc tế để tận dụng tối đa EVFTA. Theo khảo sát, sau 3 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực, chỉ có khoảng 13% doanh nghiệp chủ động điều chỉnh chuỗi cung ứng để hưởng ưu đãi12.

4. Thời cơ thách thức

Thứ nhất, mở rộng thị trường. EU là một trong những thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 2 của Việt Nam với nhu cầu nhập khẩu thủy sản bình quân của EU là 50 tỷ USD/năm13. Khi EVFTA được ký kết, các hàng hóa Việt Nam nói chung và thủy sản Việt Nam nói riêng nhận được nhiều các cam kết ưu đãi về thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu, từ đó, có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, có điều kiện thâm nhập sâu hơn vào thị trường EU.

Thứ hai, ưu đãi về thuế quan, nâng cao năng lực cạnh tranh. EVFTA đem lại cơ hội cho thủy sản Việt Nam hưởng ưu đãi thuế khi mà 50% số dòng thuế sẽ về 0% vào năm 2020 và khoảng 220 số dòng thuế các sản phẩm thủy sản có thuế suất cơ sở 0 – 22%, số dòng thuế còn lại sẽ được cắt giảm về 0% theo lộ trình 3 – 7 năm, bao gồm các mặt hàng, như: tôm, cá ngừ, mực và bạch tuộc. Điều này không chỉ giúp các sản phẩm thủy sản Việt Nam có thể cạnh tranh về giá, mà còn giúp gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Trước khi EVFTA đi vào thực thi, Việt Nam đang được hưởng thuế ưu đãi GSP dành cho nhóm các nước đang phát triển (thấp hơn 3,5% so với thuế thông thường). Trong khi thuế nhập khẩu trung bình xét theo tỷ trọng thương mại giữa các nhóm sản phẩm của hàng Việt Nam nhập khẩu vào EU là 7% thì riêng mặt hàng thủy sản là 10,8%14. Vì vậy, khi EVFTA có hiệu lực, hầu hết các mặt hàng thủy sản của Việt Nam sẽ có thể có giá thành cạnh tranh hơn và chiếm được nhiều thị phần hơn.

Thứ ba, tăng cường thu hút vốn đầu tư vào nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản. Các cam kết của EVFTA đã tạo cơ hội cho các nhà đầu từ EU tiếp cận thị trường Việt Nam dễ dàng hơn. Các doanh nghiệp EU có thể tận dụng được các lợi thế phát triển thủy sản của Việt Nam đang có sẵn; khai thác tiềm năng sẵn có của nguồn lợi thủy sản phong phú mà EU không thể nuôi trồng do đặc thù về môi trường sinh trưởng. Đồng thời, họ có thể tận dụng hệ thống cơ sở hạ tầng đã có sẵn của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, chế biến thủy sản thay vì phải xây dựng mới. Ngoài ra, các doanh nghiệp EU còn có thể tận dụng các phụ phẩm dư thừa từ quá trình chế biến thủy sản để làm thành các sản phẩm giá trị gia tăng, như: chế biến dầu Diesel từ mỡ cá tra, cá basa, tách chiết omega 3 từ phụ phẩm cá ngừ để làm dầu cá hay sản xuất thức ăn cho cá và tôm từ bột gan, mực, từ đó bán ra thị trường nội địa để gia tăng lợi nhuận.

Thứ tư, tiếp cận với khoa học – kỹ thuật tiến bộ hiện đại, giúp nâng cao chất lượng của sản phẩm thủy sản xuất khẩu. Khi EVFTA có hiệu lực, Việt Nam có thể thu hút vốn đầu tư, tiếp cận khoa học – kỹ thuật hiện đại qua các hợp tác chuyển giao công nghệ, cung cấp máy móc chế biến thủy sản, ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi trồng, chế biến thủy sản, học hỏi các mô hình nuôi trồng công nghệ cao, chia sẻ kinh nghiệm trong quản lý, chế biến và bảo quản thủy sản. Điều này góp phần đáng kể nâng cao chất lượng nuôi trồng, hiện đại hóa công nghệ chế biến, cải thiện chất lượng sản phẩm thủy sản xuất khẩu. Mặt khác, tham gia EVFTA, Việt Nam sẽ nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết về quy tắc xuất xứ, hàng rào kỹ thuật và các biện pháp an toàn kiểm dịch động vật cho các sản phẩm thủy sản xuất khẩu

Bên cạnh những thời cơ trong phát triển doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản dưới tác động của quy tắc xuất xứ trong EVFTA, còn gặp phải những thách thức sau:

Một là, cạnh tranh gay gắt. EU là thị trường lớn, thu nhập bình quân đầu người và mức sống cao cùng với lượng tiêu thụ thủy sản bình quân đầu người hàng năm khá lớn nên thu hút nhiều quốc gia xuất khẩu thủy sản vào EU, trong đó có Việt Nam. Do đó, thủy sản Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với nhiều đối thủ khác. Trong khi các doanh nghiệp thủy sản của Việt Nam hiện nay phần lớn vẫn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy mô còn sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ thấp, các sản phẩm thủy sản còn chưa đa dạng, chưa đem lại giá trị gia tăng cao.

Hai là, những thách thức từ việc tuân thủ, thực thi các quy định của EVFTA, như: quy tắc xuất xứ, quy định vệ sinh an toàn thực phẩm. Yêu cầu về quy tắc xuất xứ là một trong những thách thức lớn mà Việt Nam phải vượt qua. Quy tắc này không chỉ đòi hỏi sản phẩm xuất khẩu phải được sản xuất tại Việt Nam, còn có những yêu cầu khắt khe khác về nguyên vật liệu nhập khẩu. Ngoài ra, các tiêu chuẩn khắt khe về truy suất nguồn gốc EU đặt ra nhiều quy định về điều kiện tổ chức sản xuất, lao động, môi trường… cũng mang lại những thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam.

Ba là, thách thức từ các biện pháp phòng vệ thương mại. Các cam kết về thuế từ cả hai phía khiến cho thuế quan không còn là công cụ bảo vệ hữu hiệu để các quốc gia bảo vệ các doanh nghiệp nội địa thì các biện pháp phòng vệ thương mại sẽ được ưu tiên sử dụng nhiều hơn. Các quốc gia thuộc EU cũng có xu hướng sử dụng ngày càng nhiều các biện pháp chống bán phá giá, các rào cản phi thương mại, như: tiêu chuẩn kỹ thuật hay an toàn vệ sinh thực phẩm để bảo vệ cho các doanh nghiệp nội địa. Điều này tạo ra một thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam khi thâm nhập thị trường này.

Bốn là, tuân thủ quy định IUU. Việt Nam trước đây do hạn chế về năng lực khai thác ngư trường, tổ chức quản lý, khai báo sản phẩm không đúng yêu cầu nên có những sai phạm trong đánh bắt. Ngày 23/10/2017, EU đã chính thức rút thẻ vàng với Việt Nam do không hợp tác và không đủ nỗ lực chống khai thác thủy sản IUU. Điều này có nghĩa tất cả những hải sản của Việt Nam xuất sang EU sẽ bị kiểm soát 100%, trong khi trước đó kiểm soát có xác suất. Theo Hiệp hội Thủy sản Việt Nam, sau 2 năm nhận cảnh báo “thẻ vàng” đối với hoạt động khai thác, đánh bắt thủy hải sản Việt Nam, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU giảm mạnh. Do đó, việc tháo gỡ thẻ vàng hay nghiêm chỉnh tuân thủ quy định IUU vẫn luôn là một thách thức lớn đối với toàn ngành Thủy sản Việt Nam.

5. Một số nguyên tắc để doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản phát triển

Thủy sản là ngành kinh tế trọng điểm và xuất khẩu thủy sản trở thành mũi nhọn trong phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam. Điều này cho thấy, việc phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trở thành một nhu cầu khách quan, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay. Việc phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam cần quán triệt một số nguyên tắc sau:

Thứ nhất, phát triển doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản phải giải quyết vấn đề về chất lượng thủy sản xuất khẩu. Chất lượng các sản phẩm thủy sản được xem là vấn đề mấu chốt nhất đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Do đó, phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần phải dành sự quan tâm hàng đầu đối với bảo đảm chất lượng các sản phẩm xuất khẩu. Mỗi doanh nghiệp xuất khẩu cần phải bắt đầu từ một mặt hàng thế mạnh, thực sự xây dựng được thương hiệu riêng đối với sản phẩm thế mạnh của mình, bảo đảm đáp ứng được tiêu chí chất lượng cao cấp trong nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thủy sản.

Thứ hai, phát triển doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản phải giải quyết vấn đề về thị trường. Bên cạnh bảo đảm chất lượng sản phẩm thì phát triển mở rộng thị trường, khai thác các thị trường tiềm năng bên cạnh các thị trường truyền thống để bảo đảm đa dạng các thị trường xuất khẩu, tránh bị lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường là rất quan trọng. Các doanh nghiệp cần tập trung dài hạn vào hệ sinh thái của mình, khẳng định giá trị thương hiệu hướng tới phát triển bền vững. Ngoài ra, việc tập trung vào quảng bá thương hiệu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xây dựng mối quan hệ đáng tin cậy với các đối tác quốc tế là rất cần thiết. Bên cạnh đó, phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cũng cần phải tận dụng những chính sách hỗ trợ của Chính phủ, đặc biệt là chính sách tín dụng, thuế để nâng cao hiệu quả sản xuất, xây dựng và phát triển các chuỗi liên kết trong khai thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thủy sản.

Thứ ba, phát triển doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản phải giải quyết vấn đề về nguồn vốn và công nghệ. Vốn và công nghệ chính là vấn đề cốt lõi để phát triển doanh nghiệp thủy sản lớn mạnh trong bối cảnh hiện nay. Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần phải tối ưu hóa trong quản lý tài chính, đa dạng hóa các nguồn vốn, tài trợ cùng với việc thiết lập quan hệ tốt với các tổ chức tài chính, ngân hàng nhằm bảo đảm tối ưu nguồn vốn cho phát triển. Ngoài ra, để phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản thì cần phải đầu tư cải tiến công nghệ, từ công nghệ khai thác thủy sản, công nghệ xử lý môi trường trong nuôi trồng thủy sản, công nghệ trong sản xuất, công nghệ chế biến thủy sản, công nghệ bảo quản, đóng gói và vận chuyển sản phẩm thủy sản xuất khẩu… nhằm bảo đảm chất lượng các sản phẩm xuất khẩu.

Thứ tư, phát triển doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản phải giải quyết vấn đề về nhận thức của doanh nghiệp đối với quy tắc xuất xứ cũng như hệ thống các quy tắc quốc tế đối với sản phẩm thủy sản xuất khẩu. Doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản phải có bộ quy trình xuất khẩu thủy sản bài bản và chuyên nghiệp, từ việc chuẩn bị và kiểm tra nguồn hàng xuất khẩu; chuẩn bị hồ sơ, chứng từ làm thủ tục hải quan cho lô hàng thủy sản xuất khẩu đến việc thông báo hải quan, thông quan cho lô hàng thủy sản xuất khẩu. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần linh hoạt, không ngừng cập nhật những tiêu chuẩn quốc tế về khai thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thủy sản để thay đổi cho phù hợp.

6. Kết luận

Hiệp định EVFTA đã mang lại cho ngành Thủy sản Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam nói riêng nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ. Quy tắc xuất xứ trong EVFTA đã mang tới không ít những thời cơ cũng như tạo ra các thách thức lớn cho phát triển doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, việc nhận diện và đánh giá khái quát thực trạng phát triển doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam, tìm ra được các nguyên tắc phát triển phù hợp để phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản là rất cần thiết, không chỉ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu có thể thâm nhập sâu vào thị trường EU rộng lớn mà còn giúp doanh nghiệp phát triển bền vững trong thời gian tới.

Chú thích:
1, 2, 4, 5. World Bank, FAO and World Fish Centre (2010). The Hidden Harvests: The Global Contribution of Capture Fisheries – Conference Edition. Washington, D.C
3. UNCTAD, 2017. Fishery exports and the economic development of least developed countries: Bangladesh, Cambodia, the Comoros, Mozambique, Myanmar and Uganda, New York and Geneva, 2017
6. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (2022). Báo cáo xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2021.
7, 8, 9. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (2025). Báo cáo xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2024.
10. Nguyễn Thị Hoài Thu (2021). Utilizing the EVFTA in Vietnam’s fishery exports to the EU market. Tạp chí Công thương, tháng 7/2021.
11, 12. Nguyễn Văn Lịch, Hoàng Diệu Linh (2024). Vietnam – EU Free Trade Agreement: Challenges and the Way Forward. Tạp chí Vietnamtimes, tháng 11/2024.
13. Tổng quan ngành Thủy sản Việt Nam. https://vasep.com.vn/gioi-thieu/tong-quan-nganh.
14. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (2017). Báo cáo xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2018.