Mô hình quản lý nhà nước về giáo dục đại học trước và sau Đổi mới ở Việt Nam 

TS. Nguyễn Quang Sáng
Học viện Tài chính

(Quanlynhanuoc.vn) – Chuyển đổi mô hình quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học ở Việt Nam trước và sau Đổi mới từ năm 1986 cho thấy, tiến trình xã hội hóa và hội nhập đã có sự thay đổi rõ rệt về mô hình quản lý chuyển dần sang “giám sát”, trao quyền tự chủ nhiều hơn cho cơ sở đào tạo, đẩy mạnh kiểm định chất lượng và cơ chế trách nhiệm giải trình. Trên cơ sở so sánh theo các tiêu chí tài chính, quản trị, phân bổ nguồn lực và vai trò của Nhà nước, bài viết chỉ ra các thành tựu, như: mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình, nâng cao chất lượng và hội nhập quốc tế, đồng thời nêu rõ những hạn chế về khung pháp lý, cơ chế tự chủ – giải trình và công bằng trong tiếp cận. Từ đó, đề xuất định hướng chính sách nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước theo hướng kiến tạo và hiệu quả hơn.

Từ khóa: Quản lý nhà nước; giáo dục đại học; Đổi mới 1986; kiểm soát, giám sát, tự chủ.

1. Đặt vấn đề

Quản lý nhà nước về giáo dục đại học là chủ đề mang tính chiến lược, gắn trực tiếp với chất lượng nguồn nhân lực và sự phát triển của quốc gia. Ở Việt Nam, sự thay đổi về mô hình quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học trước và sau năm 1986 phản ánh sự chuyển đổi căn bản của thể chế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Trước năm 1986, giáo dục đại học vận hành trong mô hình bao cấp, nơi Nhà nước quản lý toàn diện và trực tiếp, coi đại học là công cụ để cung ứng nhân lực cho nền kinh tế kế hoạch hóa. Sau năm1986, cùng với công cuộc Đổi mới, giáo dục đại học dần bước vào cơ chế tự chủ, xã hội hóa và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, sự chuyển đổi này mới chỉ diễn ra từng phần, khiến hệ thống vẫn tồn tại song song những yếu tố cũ và mới, vừa mang tính bao cấp, vừa theo xu thế thị trường.

Việc phân tích, so sánh hai mô hình quản lý này không chỉ có ý nghĩa học thuật, giúp nhận diện logic phát triển và sự vận động của thể chế giáo dục đại học mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, cung cấp căn cứ để hoạch định chính sách quản lý nhà nước phù hợp với bối cảnh hiện nay.

2. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về giáo dục đại học 

Quản lý nhà nước về giáo dục đại học được hiểu là quá trình Nhà nước sử dụng quyền lực công để định hướng, điều tiết, hỗ trợ và giám sát toàn diện hoạt động giáo dục đại học, nhằm bảo đảm cho hệ thống này vận hành phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và chiến lược phát triển con người. Về bản chất, đây là một bộ phận quan trọng của quản lý công, phản ánh vai trò tổ chức, điều tiết và định hướng của Nhà nước trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời thể hiện trách nhiệm công của Nhà nước đối với xã hội trong lĩnh vực đào tạo bậc cao. 

Ở góc độ quốc tế, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, quản lý nhà nước về giáo dục đại học có thể vận hành theo hai mô hình điển hình: mô hình kiểm soát (state control) và mô hình giám sát (state supervision). Với mô hình kiểm soát, Nhà nước can thiệp trực tiếp vào hầu hết các khâu của quá trình quản lý và vận hành giáo dục đại học, từ khâu tuyển sinh, tổ chức đào tạo, quản lý nhân sự, đến phân bổ nguồn lực tài chính; điều này giúp Nhà nước giữ quyền chủ động và thống nhất nhưng lại hạn chế quyền tự chủ, sáng tạo và tính linh hoạt của các cơ sở giáo dục. Ngược lại, mô hình giám sát chú trọng việc thiết kế khung pháp lý và cơ chế chính sách, đồng thời trao quyền tự chủ cao hơn cho các trường đại học trong việc quyết định tổ chức bộ máy, chương trình đào tạo và huy động nguồn lực; vai trò của Nhà nước chủ yếu nằm ở việc theo dõi, đánh giá, giám sát kết quả và bảo đảm chất lượng.

Trong thực tiễn phát triển của Việt Nam, cả hai mô hình này đều đã được áp dụng trong từng giai đoạn lịch sử. Trước năm 1986, quản lý giáo dục đại học ở Việt Nam vận hành theo mô hình kiểm soát tập trung, Nhà nước can thiệp sâu vào mọi hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học. Sau công cuộc Đổi mới với yêu cầu hội nhập và phát triển, mô hình giám sát dần được áp dụng, thể hiện qua việc trao quyền tự chủ cho các trường, đẩy mạnh kiểm định chất lượng và xây dựng cơ chế giám sát thay vì kiểm soát trực tiếp. Năm 1986, trở thành dấu mốc chuyển đổi quan trọng, đánh dấu sự thay đổi tư duy và phương thức quản lý nhà nước về giáo dục đại học, từ “kiểm soát” sang “giám sát”, mở ra những tiền đề quan trọng cho việc phát triển hệ thống giáo dục đại học trong bối cảnh hội nhập quốc tế và kinh tế tri thức.

3. So sánh hai mô hình quản lý nhà nước về giáo dục đại học trước và sau năm 1986

3.1. Mô hình quản lý giáo dục đại học trước Đổi mới

Trong giai đoạn trước năm 1986, quản lý nhà nước về giáo dục đại học ở Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của mô hình kinh tế – chính trị XHCN, đặc trưng bởi cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Đây là giai đoạn Nhà nước thực hiện “quản lý trực tiếp”, trong đó Nhà nước không chỉ giữ vai trò thiết kế chính sách mà còn can thiệp sâu vào tất cả các khâu vận hành. Trong mô hình này, giáo dục được quan niệm là phúc lợi xã hội và Nhà nước bao cấp nhu cầu giáo dục cho toàn bộ mọi người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Mọi hoạt động giáo dục được quản lý và kế hoạch hóa dài hạn hoặc ngắn hạn từ các cấp trung ương cho đến địa phương, trong mô hình này tất cả công việc về giáo dục muốn được thực hiện đều phải theo kế hoạch được quyết định từ trên xuống. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, giáo dục đại học do Nhà nước quyết định. Do vậy, các trường không có quyền tự chủ, chi phí hoạt động được Nhà nước cấp cho từng trường.

Đặc trưng của mô hình này được biểu hiện như sau:

Một là, khung thể chế và triết lý quản lý.

Hệ thống giáo dục đại học được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Nhà nước theo mô hình “quản lý trực tiếp – toàn diện”. Giáo dục là công cụ chính trị – tư tưởng, phục vụ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước can thiệp từ khâu hoạch định mục tiêu đào tạo, ban hành chương trình, giáo trình thống nhất cho đến phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh, kế hoạch đào tạo hằng năm.Do vậy, các trường đại học không có quyền tự quyết về chuyên môn, tổ chức hay tài chính; vai trò của hiệu trưởng chỉ là thực thi chỉ đạo cấp trên.

Hai là, cơ chế phân bổ nguồn lực.

Nguồn lực cho đại học chủ yếu do ngân sách nhà nước cấp phát theo chỉ tiêu kế hoạch. Tài chính mang tính “xin – cho”, phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định hành chính: học phí không tồn tại (miễn phí hoàn toàn), sinh viên được Nhà nước bao cấp từ học tập đến sinh hoạt; cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên phân bổ theo cơ chế kế hoạch, thiếu sự cạnh tranh hoặc động lực nội sinh để phát triển. Do vậy, chất lượng đào tạo ít gắn với nhu cầu xã hội mà thiên về “hoàn thành kế hoạch” được giao.

Ba là, cấu trúc và tổ chức hệ thống.

Hệ thống giáo dục đại học có quy mô nhỏ, ít trường, chủ yếu tập trung vào các ngành khoa học cơ bản và phục vụ nhu cầu nhân lực hành chính, quản lý nhà nước. Tính đa dạng về loại hình trường, mô hình đào tạo, chuẩn đầu ra gần như không có. Mô hình quản lý theo ngành, Bộ chủ quản trực tiếp điều hành trường, dẫn tới sự phụ thuộc nặng nề, hạn chế tính tự chủ.

Việc xây dựng mạng lưới các trường học, xác định cơ cấu hệ thống giáo dục, xây dựng hệ thống chuyên môn, chương trình, thậm chí việc xác định giáo trình, đề cương dạy học, kế hoạch dạy học,… cũng đều do Nhà nước thống nhất quyết định. Tuy nhiên, thiếu cơ chế khuyến khích sáng tạo và năng lực tự chủ của cơ sở giáo dục đại học; nội dung đào tạo xa rời nhu cầu thực tiễn kinh tế – xã hội; sản phẩm đào tạo mang tính “cung theo kế hoạch” chứ không “cầu của thị trường”; chất lượng và quy mô hạn chế, không theo kịp yêu cầu đổi mới khoa học – công nghệ và hội nhập quốc tế.

3.2. Mô hình quản lý giáo dục đại học sau năm 1986

Thực hiện đường lối đổi mới, tại Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 3/1986), mô hình quản lý nhà nước về giáo dục đại học ở Việt Nam bước vào giai đoạn cải cách sâu rộng, gắn liền với tiến trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự thay đổi này làm biến đổi căn bản mô hình quản lý nhà nước về giáo dục đại học trên nhiều phương diện chuyển từ “quản lý vi mô” sang “quản lý vĩ mô”, phù hợp với tư tưởng quản lý hiện đại, coi Nhà nước là “nhà kiến tạo và điều tiết” thay vì “người điều hành trực tiếp”. Trong mô hình này, Nhà nước chuyển từ chủ thể duy nhất được quyền và có trách nhiệm cung cấp đáp ứng mọi nhu cầu về giáo dục của xã hội sang mô hình nhà nước phối hợp với khu vực tư nhân để thực hiện vai trò này dưới sự chi phối mạnh mẽ của cơ chế thị trường. Đặc trưng nổi bật của mô hình này là: 

Thứ nhất, khung thể chế và định hướng quản lý.

Nhà nước dần chuyển từ “quản lý tập trung, bao cấp” sang “điều tiết, giám sát và định hướng phát triển”. Đây là sự thay đổi phù hợp với lý thuyết New Public Management (NPM), trong đó vai trò Nhà nước không còn là “người trực tiếp điều hành” mà trở thành “nhà kiến tạo thể chế và giám sát”.

Các văn bản pháp lý quan trọng được ban hành, như: Luật Giáo dục (năm 1998, 2005, 2019) và Luật Giáo dục đại học năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), đặt nền tảng cho tự chủ đại học, xã hội hóa giáo dục và hội nhập quốc tế. Trọng tâm quản lý chuyển sang bảo đảm chất lượng, kiểm định, xếp hạng, trách nhiệm giải trình.

Thứ hai, cơ chế phân bổ nguồn lực và tài chính.

Từ sau Đổi mới, ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học vẫn giữ vai trò chủ đạo nhưng đã chuyển từ cấp phát bao cấp sang cơ chế giao quyền tự chủ tài chính. Học phí được áp dụng từ đầu thập niên 90 thế kỷ XX cùng với sự xuất hiện của nguồn thu từ dịch vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, liên kết quốc tế.

Cơ chế “xin – cho” giảm dần thay bằng cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ, kiểm định đầu ra. Đồng thời, Nhà nước khuyến khích đa dạng hóa nguồn lực thông qua các chính sách xã hội hóa giáo dục, cho phép thành lập đại học tư thục, dân lập, mở rộng hợp tác công – tư, đặc biệt được quy định rõ trong Nghị quyết số 91/NQ-CP ngày 18/6/2024 của Chính phủ ban hành về việc đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ sự nghiệp công lập, qua đó tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng giữa cơ sở công lập và ngoài công lập.

Thứ ba, tổ chức và cấu trúc hệ thống.

Số lượng trường đại học, cao đẳng tăng nhanh, đặc biệt từ cuối thập niên 90 đến năm 2024, cả nước có 243 trường đại học (176 công lập và 67 tư thục)2. Xuất hiện các loại hình đa dạng (công lập, ngoài công lập, tư thục, liên kết quốc tế, mô hình tự chủ toàn diện). Một số đại học quốc gia, đại học vùng được thành lập, thể hiện chủ trương xây dựng các trung tâm đào tạo – nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực, ngang tầm khu vực. Chất lượng được chú trọng thông qua cơ chế kiểm định chất lượng và tham chiếu chuẩn quốc tế.

4. Một số vấn đề tiếp tục nghiên cứu

Hiện nay, sự chuyển đổi này làm thay đổi vai trò quản lý của Nhà nước, Nhà nước vẫn giữ vai trò là trung tâm trong việc cung cấp dịch vụ giáo dục đại học, tuy nhiên, Nhà nước sẽ không trực tiếp cung ứng mà chia sẻ công việc đó cho các thành phần khác trong xã hội, từ việc quản lý vĩ mô bảo đảm công bằng trong giáo dục giữa các cơ sở giáo dục trong và ngoài công lập. Việc bảo đảm chất lượng đào tạo như thế nào khi có sự tham gia của các cơ sở giáo dục ngoài công lập hay vai trò cung cấp nguồn lực cho giáo dục như thế nào… là các vấn đề mà Nhà nước cần giải quyết để bảo đảm hiệu quả cho quản lý về giáo dục đại học trong điều kiện xã hội hóa hiện nay.

Giáo dục phải được xem như một hoạt động trong đó tất cả thành viên của các tổ chức giáo dục và xã hội đều tham gia trên những cương vị và trách nhiệm khác nhau. Đặc trưng của quản lý giáo dục đại học trong điều kiện mới là cấu trúc và vai trò của các chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục đại học đã có sự thay đổi đáng kể. Trong đó, động viên, khuyến khích, bảo đảm và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia và phát triển giáo dục đại học; có cơ chế cung cấp dịch vụ giáo dục đại học (công lập, ngoài công lập, trong nước, ngoài nước,..); tăng cường vai trò tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học. Đặc biệt, đa dạng hóa các chủ thể cung cấp tài chính, nguồn lực cho giáo dục đại học; vai trò của người học cũng có những thay đổi, trách nhiệm tăng lên (cả về học tập và chi phí). Đồng thời, vai trò của xã hội tăng lên đáng kể (vừa là chủ thể tham gia phát triển giáo dục đại học, vừa là “đối tác” đóng góp với Nhà nước về hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, kiểm định giáo dục…).

Nhà nước sẽ có vai trò định hướng các hoạt động của giáo dục đại học theo đúng mục tiêu, chiến lược của Nhà nước; vai trò giám sát của Nhà nước được đề cao thông qua việc ban hành hệ thống pháp luật quy định chuẩn mực trong giáo dục đại học. Do vậy, cần xác định rõ vai trò, nội dung và phương thức cụ thể của quản lý nhà nước với giáo dục đại học. Trong điều kiện hiện nay, Nhà nước có chức năng chủ yếu là: (1) Bảo đảm đúng định hướng chính trị của giáo dục. (2) Xác định ưu tiên các biện pháp chiến lược. (3)Là chủ thể cung cấp nguồn lực chủ yếu, lớn nhất cho giáo dục đại học nhưng có sự đổi mới trong phương thức cung cấp để nâng cao hiệu quả đầu tư các nguồn lực của Nhà nước và của xã hội. (4) Chuyển từ người cung cấp chủ yếu sang vai trò của người điều phối và bảo đảm môi trường cho giáo dục phát triển trên cơ sở chế định mối quan hệ: Nhà nước, nhà trường, người học và toàn xã hội.

Như vậy, trong điều kiện xã hội hóa và chuyển đổi sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước cần phải giải quyết các vấn đề sau:

Một là, tạo lập ra một môi trường pháp lý chuẩn mực trong kiểm soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng chiến lược, quy hoạch, mục tiêu, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục phù hợp điều kiện xã hội hóa giáo dục đại học. Bảo đảm công bằng trong giáo dục giữa công lập và ngoài công lập.

Hai là, động viên, khuyến khích mọi chủ thể trong xã hội tham gia phát triển giáo dục đại học;đồng thời, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội. Mục tiêu đặt ra cho giáo dục đại học Việt Nam, trong đó đến năm 2030, có ít nhất một cơ sở giáo dục đại học lọt vào nhóm 100 trường hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực. Đồng thời, nâng tỷ lệ tuyển sinh sau đại học lên khoảng 30% (trong đó khoảng 40% là nghiên cứu sinh tiến sĩ) và tăng tỷ trọng doanh thu của trường đại học từ hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ lên tối thiểu 35%…2.

Ba là, xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục đại học phù hợp, phân cấp, phân quyền hợp lý. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản lý, từ đó, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn và xây dựng khung tiêu chí đánh giá năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức một cách rõ ràng để nâng cao hiệu quả quản lý. 

Bốn là, xây dựng và phát huy hiệu quả hệ thống kiểm định chất lượng trong toàn ngành làm cơ sở cho việc đánh giá và thường xuyên thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra. Các trường cần cải tiến chất lượng ngay sau đánh giá. Việc giám sát, kiểm định chất lượng trong các cơ sở giáo dục đại học được triển khai thường xuyên sẽ nâng cao chất lượng đào tạo trong quá trình giảng dạy và học tập của các trường đại học.

Năm là, Nghị quyết số  71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh việc thúc đẩy giáo dục và đào tạo đổi mới, phát triển mạnh mẽ, đưa Việt Nam thuộc nhóm 21 quốc gia sớm đạt mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp quốc đến năm 2030 về giáo dục chất lượng3. Do đó, cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục đại học trên cơ sở phát huy tính tiềm năng và tính chủ động của các cơ sở giáo dục đại học.

5. Kết luận và khuyến nghị

Sự chuyển đổi mô hình quản lý nhà nước về giáo dục đại học ở Việt Nam từ trước đến sau Đổi mới năm 1986 phản ánh bước ngoặt quan trọng trong tiến trình cải cách thể chế. Nếu như trước năm 1986, mô hình quản lý mang tính “kiểm soát” tập trung, bao cấp, bảo đảm sự thống nhất nhưng hạn chế tính sáng tạo và tự chủ của các cơ sở đào tạo thì sau Đổi mới, hệ thống giáo dục đại học đã từng bước chuyển sang mô hình “giám sát”, chú trọng pháp lý, tự chủ, xã hội hóa và hội nhập quốc tế. Sự thay đổi này đã tạo điều kiện mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình và nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội.

Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi cũng bộc lộ những thách thức lớn, như: khung pháp lý chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ, cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình còn hạn chế, phân bổ nguồn lực chưa hợp lý, chênh lệch chất lượng giữa các cơ sở đào tạo, cùng sức ép hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Điều đó đặt ra yêu cầu Nhà nước phải tiếp tục đổi mới phương thức quản lý theo hướng kiến tạo và điều tiết, tập trung vào thiết lập môi trường pháp lý minh bạch, thúc đẩy cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục và nâng cao chất lượng gắn với chuẩn mực quốc tế.

Như vậy, quản lý nhà nước về giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay cần được nhìn nhận không chỉ như một hoạt động điều hành, mà còn là công cụ chiến lược nhằm định hướng, điều tiết và phát huy tối đa vai trò của các chủ thể xã hội trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập toàn cầu.

Vì vậy, trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục đại học, cần chú trọng một số định hướng chính như sau: (1) Hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ, ổn định và phù hợp với xu thế quốc tế nhằm bảo đảm môi trường pháp lý minh bạch, thuận lợi cho các cơ sở giáo dục đại học phát triển; (2) Đẩy mạnh trao quyền tự chủ toàn diện đi đôi với cơ chế trách nhiệm giải trình rõ ràng, minh bạch và gắn với đánh giá kết quả đầu ra; (3) Đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực, chuyển từ “cấp phát theo chỉ tiêu” sang “tài trợ theo hiệu quả”; đồng thời, mở rộng cơ chế hỗ trợ tài chính cho người học yếu thế để bảo đảm công bằng xã hội; (4) Xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng và xếp hạng đại học độc lập, đáng tin cậy, gắn với chuẩn mực khu vực và quốc tế; (5) Tăng cường gắn kết giữa giáo dục đại học với nhu cầu của thị trường lao động, khoa học – công nghệ và phát triển kinh tế – xã hội, từ đó, phát huy vai trò động lực của giáo dục đại học trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Chú thích:

1. Quy mô giáo dục đại học tăng hơn 300.000 sinh viên trong năm học 2023 – 2024. https://thanhnien.vn/quy-mo-giao-duc-dh-tang-hon-300000-sinh-vien-trong-nam-hoc-2023-2024-185250522162830238.htm

2. Nâng tầm chất lượng đại học hội nhập giáo dục toàn cầu. https://nhandan.vn/nang-tam-chat-luong-dai-hoc-hoi-nhap-giao-duc-toan-cau-post921004.html

3. Nghị quyết của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.https://nhandan.vn/nghi-quyet-cua-bo-chinh-tri-ve-dot-pha-phat-trien-giao-duc-va-dao-tao-post904100.html

Tài liệu tham khảo:

1. Phạm Đức Chính (2014). Giáo dục đại học Việt Nam  Góc nhìn từ lý thuyết kinh tế – Tài chính hiện đại. H. NXB Chính trị quốc gia.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIH. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIIH. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIIIH. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIIITập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

8. Trần Khánh Đức (2014). Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI. H. NXB Giáo dục Việt Nam.

9. Hồ Viết Thịnh (2019). Tăng cường quản lý giáo dục đại học ở Việt Nam từ góc độ kinh tế.Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Mỏ – Địa chất.