Quan điểm chiến lược về văn hóa Việt Nam trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

PGS.TS. Lê Thanh Bình
Học viện Ngoại giao, Bộ Ngoại giao

(Quanlynhanuoc.vn) – Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng “sức đề kháng” của văn hóa dân tộc trước thách thức xâm lăng văn hóa. Văn kiện viết: “phát triển, lan tỏa các giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức; tăng cường “sức đề kháng” của văn hóa, chống lại mọi sự “xâm lăng” về văn hóa; bài trừ các hình thức văn hóa lai căng, hủ lậu…; đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc lịch sử, văn hóa… Chủ động tích cực hợp tác quảng bá hình ảnh đất nước, giá trị văn hóa và con người Việt Nam ra thế giới”. Bài viết luận giải vấn đề này và đề xuất bổ sung thêm các giải pháp để nội dung này của văn kiện đi vào cuộc sống nhằm góp thêm tiếng nói tích cực, có trách nhiệm đối với luận điểm đặc biệt quan trọng này trong giai đoạn đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Từ khóa: Chiến lược văn hóa, chủ trương, đường lối của Đảng, đời sống xã hội, Dự thảo Văn kiện XIV.

1. Phân tích các quan điểm chiến lược văn hóa

Trước hết các quan điểm đã chạm đến những khía cạnh cốt lõi trong chính sách văn hóa hiện đại của Việt Nam, thể hiện sự cân bằng giữa việc xây dựng nội lực và đối phó với thách thức bên ngoài.

1.1. Quan điểm chủ động, tích cực xây dựng nội lực “phát triển và lan tỏa giá trị văn hóa truyền thống cùng chuẩn đạo đức”

Phát triển, lan tỏa các giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức là khía cạnh mang tính xây dựng, chủ động, nhấn mạnh mục tiêu hàng đầu là củng cố, phát triển nền tảng văn hóa dân tộc, nâng cao đời sống tinh thần và đạo đức xã hội chuẩn mực, biến thành nếp sống, thành ý thức thường trực trong đời sống và có giải pháp lâu dài để quảng bá, lan tỏa các giá trị hấp dẫn, có tầm nhân loại, thể hiện sự độc đáo của văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Hàm ý của quan điểm nhằm khuyến nghị quốc gia dân tộc phải bảo vệ truyền thống văn hóa tốt đẹp, độc đáo, quan niệm giá trị đúng đắn, tính dân tộc của văn hóa, tính độc lập và sức kết tụ văn hóa dân tộc. Bảo vệ và tin tưởng vững chắc hình thái ý thức về truyền thống văn hóa nhân văn, tiến bộ và các tín ngưỡng tốt đẹp như bộ gen di truyền của văn hóa dân tộc cũng là bộ phận quan trọng của lợi ích quốc gia của một nước. Và khi đã trở thành nền tảng, thành bản sắc, thành sức mạnh có lợi thế rồi thì việc chủ động quảng bá, lan tỏa sẽ dễ dàng, hanh thông1.

Để thành công, chiến lược này phải xác định rõ “giá trị cốt lõi” nào cần lan tỏa (ví dụ: tinh thần yêu nước, đoàn kết, trung thực, trách nhiệm, vì nghĩa lớn; văn hóa gia đình, giá trị nêu gương của những tinh hoa đại diện dân tộc như Bác Hồ, đồng chí Lê Duẩn và các danh nhân khác; văn hóa không ngại khó, kiên trì, sáng tạo thực hiện các mục tiêu lâu dài, như: dân chủ, độc lập, tư do, hạnh phúc, phát triển bền vững, thịnh vượng…) và áp dụng các phương thức hiện đại (truyền thông số, giáo dục tích hợp) thay vì chỉ hô hào, hình thức bề nổi kiểu “cờ, đèn, kèn hoa”, “đánh trống bỏ dùi, đầu voi đuôi chuột”, biểu hiện cụ thể là không chú trọng hiệu quả. Như vậy, thời kỳ mới phải dùng thước đo có định lượng rõ ràng, công bằng, minh bạch khác hẳn với giai đoạn trước kia nhưng đôi khi tổ chức bị sa đà vào cách làm hơi thiên bề nổi, hình thức chủ nghĩa và giá trị bị lệch chuẩn…

1.2. Quan điểm phòng vệ

Tăng cường “sức đề kháng” của văn hóa, chống lại mọi sự “xâm lăng” về văn hóa. Khái niệm “sức đề kháng” là một ẩn dụ rất mạnh mẽ, hàm ý rằng văn hóa dân tộc phải đủ khỏe để tự sàng lọc và bảo vệ. Muốn tăng sức đề kháng thì Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị phải có chính sách chuẩn và triển khai đồng bộ để xây dựng nội lực văn hóa mạnh, thành thương hiệu uy tín có thể khẳng định “cái riêng”, cái đặc trưng để chống được sự xâm lấn hoặc lôi kéo của nền văn hóa khác, mặt khác, phải tăng cường giáo dục trong nhà trường, gia đình, tổ chức, cộng đồng để mọi người tự giác, chủ động bảo vệ văn hóa dân tộc, bảo vệ văn hóa cá nhân người Việt.

Ở thời đại giao lưu hội nhập sâu rộng, “trong cơ chế tiếp xúc, thu nhận giữa các nền văn hóa còn có một cơ chế khác nữa là lựa chọn, ngăn ngừa, lọc bỏ, loại trừ, hạn chế, phân tích, tranh luận, đấu tranh… với những gì không thể kết hợp, gây hại trước mắt và lâu dài cho an ninh văn hóa, lợi ích văn hóa của quốc gia”2.

“Xâm lăng văn hóa” hiện đại không chỉ là sự áp đặt văn hóa đơn thuần như trước đây mà ngày nay chủ yếu là bằng nhiều con đường mềm mại, liên quan văn hóa có thể gây hại, xâm lăng, lấn át, bào mòn kiểu mưa dần thấm lâu hoặc thông qua sự thẩm thấu kinh tế (tác động đến văn hóa tiêu dùng, chạy theo lối sống văn hóa trọng vật chất, dẫn đến ứng xử văn hóa lệch chuẩn vì tiền) và chiếm lĩnh không gian số. Việc chống lại nó đòi hỏi phải khuyến khích sự sáng tạo mạnh mẽ, được sàng lọc, tôn vinh trong nước để tạo ra các sản phẩm văn hóa chất lượng cao, hấp dẫn, có tính cạnh tranh cao, thay vì chỉ đơn thuần là cấm đoán kiểu hành chính. Bài học Nhật Bản sản xuất hàng hóa có triết lý văn hóa “Nhỏ mà đẹp, khả dụng, lâu bền đồng hành cùng bạn” hay đưa văn hóa phim hoạt hình “Anime” chiếm lĩnh không gian số, đem lại lợi nhuận kinh tế khổng lồ, truyền bá văn hóa Nhật cũng là bài học để Việt Nam tham chiếu.

1.3. Quan điểm thanh lọc và đấu tranh

Bài trừ các hình thức văn hóa lai căng, hủ lậu… là hoạt động dọn dẹp nội bộ nhằm loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lỗi thời, hoặc không phù hợp với chuẩn mực xã hội hiện tại. Cần cân nhắc để xã hội dần bỏ các lễ hội như chém lợn, đâm trâu. Các lễ hội gắn với tinh thần thượng võ, yêu nước như hội võ Tây Sơn cần được nghiên cứu sâu để tổ chức hay hơn, tụ họp được cả người hâm mộ trong, ngoài nước. Những điệu múa của dân tộc ít người nên chú ý chọn trang phục thể hiện nét đẹp của dân tộc, chọn chất liệu vải tốt, phù hợp đời sống hiện đại.

Tuy nhiên, khái niệm “lai căng” cần được định nghĩa rất rõ ràng và linh hoạt. Nếu định nghĩa quá cứng nhắc, nó có thể vô tình kìm hãm sự sáng tạo và hạn chế việc tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Việc bài trừ nên tập trung, nhấn mạnh vào những nội dung độc hại, vi phạm pháp luật và phẩm giá con người, chứ không phải là bài trừ, dị ứng với sự đa dạng phong cách.

Đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc lịch sử, văn hóa là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền tư tưởng và thông tin chủ yếu trên không gian mạng. Cuộc đấu tranh này trong thế kỷ XXI phải dựa trên cơ sở khoa học, dữ liệu lịch sử xác thực và được thực hiện bằng ngôn ngữ đối thoại hiện đại trên các nền tảng số, thay vì chỉ bằng mệnh lệnh hành chính.

1.4. Quan điểm chủ động, tích cực hợp tác quảng bá hình ảnh đất nước, giá trị văn hóa và con người Việt Nam ra thế giới

Đây là một chủ trương lớn, chiến lược, thể hiện tầm nhìn toàn diện và hội nhập sâu rộng, được triển khai mạnh mẽ thông qua lĩnh vực ngoại giao văn hóa và truyền thông đối ngoại.Luận điểm này bao gồm ba yếu tố cốt lõi và mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng:

(1) Tính “Chủ động, tích cực, hợp tác”. Chủ động không chờ đợi mà phải tự mình tìm kiếm, tạo ra cơ hội để giới thiệu hình ảnh quốc gia. Điều này thể hiện tinh thần tự lực, tự cường và tận dụng tối đa các kênh, phương thức truyền thông, giao lưu quốc tế. Tích cực triển khai một cách mạnh mẽ, thường xuyên, có chiến lược và chuyên nghiệp, không chỉ giới hạn trong các sự kiện ngoại giao chính thức mà còn mở rộng sang các lĩnh vực kinh tế, du lịch, thể thao, nghệ thuật, công nghiệp văn hóa… Hợp tác, nhấn mạnh việc cần thiết phải liên kết với các đối tác quốc tế (chính phủ, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân) để tạo ra sự cộng hưởng, tận dụng mạng lưới và kinh nghiệm toàn cầu, đưa thông tin hấp dẫn, tích cực, các lợi thế của Việt Nam đến với công chúng quốc tế một cách hiệu quả và đa chiều nhất.

(2) Đối tượng quảng bá. “Hình ảnh đất nước, giá trị văn hóa và con người Việt Nam”. Việc quảng bá không chỉ dừng lại ở danh lam thắng cảnh mà bao gồm một hình ảnh toàn diện, đa chiều, tích cực, gắn với chủ thể chính là con người Việt Nam.

Hình ảnh đất nước là một quốc gia hòa bình, ổn định về chính trị, năng động về kinh tế, đổi mới thành công, là đối tác tin cậy và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Giới thiệu bản sắc đậm đà, độc đáo của văn hóa Việt Nam (di sản vật thể và phi vật thể, ẩm thực, nghệ thuật truyền thống, võ thuật, dân ca, thời trang, lễ hội…), thể hiện một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần cho sự phát triển bền vững. Quảng bá những phẩm chất tốt đẹp của người Việt, yêu chuộng hòa bình, hiếu khách, thông minh, cần cù, nhân hậu và có khát vọng phát triển mãnh liệt. Luận điểm có ý nghĩa chiến lược sâu sắc, góp phần phục vụ tối đa các mục tiêu phát triển và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

(3) Nâng cao vị thế và quyền lực mềm quốc gia. Quảng bá hình ảnh tích cực giúp xây dựng thương hiệu Quốc gia vững mạnh, dễ nhận diện, hấp dẫn, dễ thu hút công chúng nhiều nước.

Văn hóa được coi là “sức mạnh mềm” của đất nước. Việc lan tỏa các giá trị văn hóa giúp tăng cường sự nhận diện, tạo thiện cảm và sự tôn trọng của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.

(4) Phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Thu hút vốn đầu tư và thúc đẩy du lịch. Một hình ảnh quốc gia đẹp, ổn định, thân thiện là yếu tố tiên quyết để thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và khách du lịch. Khi thế giới hiểu đúng, hiểu sâu về Việt Nam, họ sẽ tin tưởng và tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh doanh, chọn Việt Nam là điểm đến thường xuyên trong du lịch và các hoạt động khác.

(5) Hợp tác quốc tế, xây dựng cầu nối vững chắc cho ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị. Sự hiểu biết về văn hóa sẽ luôn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đàm phán, ký kết các thỏa thuận hợp tác đa phương và song phương cho nhiều lĩnh vực kể cả văn hóa – xã hội.

(6) Bảo vệ bản sắc dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc chủ động giới thiệu các giá trị văn hóa cốt lõi, độc đáo là cách hiệu quả để giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, tránh bị hòa tan bởi các luồng văn hóa ngoại lai.

(7) Quảng bá thành tựu và khát vọng hòa bình của Việt Nam giúp tạo sự đồng thuận và ủng hộ quốc tế đối với các vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

(8) Vai trò của ngoại giao văn hóa được thể hiện rõ nét nhất thông qua ngoại giao Văn hóa – một trụ cột quan trọng, cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế của nền ngoại giao toàn diện Việt Nam. Ngoại giao văn hóa là phương thức để biến tài sản văn hóa thành tài sản quốc gia, dùng văn hóa làm cầu nối, con đường, phương thức mềm dẻo để giao lưu, hợp tác và lan tỏa thông điệp. Điều này đòi hỏi chuyên nghiệp hóa, xây dựng các chiến lược quảng bá dài hạn, có trọng tâm, trọng điểm, sử dụng công nghệ mới, AI và truyền thông số hiện đại. Đa dạng hóa, đẩy mạnh các hoạt động giao lưu văn hóa, nghệ thuật, điện ảnh, ẩm thực, giáo dục và thể thao, võ thuật tại nước ngoài. Huy động nguồn lực, phát huy vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (kiều bào) như những “Đại sứ văn hóa” để lan tỏa hình ảnh quê hương, đồng thời, khuyến khích các nghệ sĩ, trí thức và doanh nghiệp chủ động, tự giác tham gia vào công tác quảng bá.

Tóm lại, luận điểm “Chủ động, tích cực hợp tác quảng bá hình ảnh đất nước, giá trị văn hóa và con người Việt Nam ra thế giới” là một minh chứng cho thấy Đảng, Nhà nước ta luôn coi văn hóa là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển và là một công cụ ngoại giao sắc bén trong kỷ nguyên mới.

2. Đề xuất bổ sung để quan điểm hoàn thiện

Để các quan điểm quan trọng về văn hóa này mang tính xây dựng, tiên phong và phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, cần bổ sung thêm khía cạnh Hội nhập tích cực và Định hướng tương lai.

2.1. Bổ sung khía cạnh hội nhập tích cực

Luận điểm gốc chủ yếu tập trung vào “chống lại” và “bài trừ”. Cần bổ sung yếu tố chủ động tìm kiếm và tiếp thu tinh hoa phù hợp phát triển bền vững.

Khía cạnh đề xuấtNội dung chi tiếtÝ nghĩa hoàn thiện
Chủ động giao lưu văn hóa“Chủ động nghiên cứu, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu và hiện đại hóa văn hóa dân tộc.”Chuyển từ trạng thái “phòng ngự” sang “tấn công”. Văn hóa chỉ phát triển khi có sự đối thoại và trao đổi.
Khuyến khích sáng tạo“Tạo lập môi trường pháp lý và xã hội thúc đẩy tự do sáng tạo trên cơ sở phát huy các giá trị truyền thống, khuyến khích sự đa dạng văn hóa”.Sáng tạo là “vắc-xin” hiệu quả nhất chống lại văn hóa lai căng. Chỉ có sản phẩm văn hóa Việt Nam chất lượng cao mới có thể cạnh tranh với văn hóa ngoại.

2.2. Bổ sung khía cạnh định hướng tương lai

Chiến lược phải được gắn kết với mục tiêu phát triển kinh tế và tăng cường vị thế quốc gia.

Khía cạnh đề xuấtNội dung chi tiếtÝ nghĩa hoàn thiện
Xây dựng sức mạnh mềm“Biến các giá trị văn hóa và di sản lịch sử trở thành Nguồn lực thực tế và sức mạnh mềm của quốc gia, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và đối ngoại hiệu quả”Liên kết văn hóa với ngoại giao, thương mại và du lịch, tạo ra giá trị kinh tế thực tiễn cho các ngành công nghiệp văn hóa (Không dàn trải, chỉ chọn một số ngành hiệu quả, có lợi thế).
Tận dụng công nghệ số“Thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, ứng dụng công nghệ cao, AI để bảo tồn, truyền bá văn hóa và tạo ra các sản phẩm văn hóa số mới, hấp dẫn, tiếp cận thế hệ trẻ toàn cầu”.Bảo đảm văn hóa Việt Nam không bị tụt hậu trong không gian số và có khả năng lan tỏa mạnh mẽ trên toàn thế giới, trước hết là tới các nước quan trọng, có ảnh hưởng lớn.

Để dễ nhận diện, có thể thiết kế Slogan tổng quát cho luận điểm bao gồm 5 trụ cột: xây dựng, bảo vệ, thanh lọc, hội nhập và đổi mới.

Như vậy, có thể nhấn mạnh trong Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng XIV liên quan đến Chiến lược văn hóa Việt Nam về cơ bản là: phát huy nội lực qua việc phát triển và lan tỏa các giá trị văn hóa cốt lõi, chuẩn mực đạo đức; nâng cao “sức đề kháng” và chủ động đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc; đồng thời, chủ động nghiên cứu, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại; tạo lập môi trường thúc đẩy tự do sáng tạo, ứng dụng công nghệ số; nhằm xây dựng sức mạnh mềm quốc gia, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Chủ động tích cực hợp tác quảng bá hình ảnh đất nước, giá trị văn hóa và con người Việt Nam ra thế giới.

3. Kiến nghị giải pháp đưa các nội dung của Dự thảo Văn kiện vào cuộc sống

Để chính sách vào cuộc sống phải bảo đảm tính khả thi, khoa học, hiệu quả lâu dài để không chỉ cán bộ chuyên môn mà mọi công dân đều thực hiện tốt, có tinh thần trách nhiệm, tùy theo hoàn cảnh, tích cực sáng tạo, đóng góp cho xây dựng, bảo vệ, phát triển văn hóa, quảng bá văn hóa con người Việt Nam và giao lưu văn hóa hiện đại. Văn hóa không đóng khung, bó hẹp ở trong quốc gia mà luôn có sự giao tiếp, giao lưu, tiếp thu tinh hoa các nền văn hóa nơi khác, hợp tác trao đổi với quốc tế để làm giàu cho chính văn hóa bản địa.

Thứ nhất, trong bối cảnh mới, cần đặc biệt chú trọng lựa chọn người lãnh đạo, đầu tàu, quản trị, điều phối cho hoạt động có tính đặc biệt là giao lưu, truyền bá, tiếp thu, cộng sinh, hợp tác văn hóa xứng tầm. Chú trọng chọn những người có tầm vóc, nhân cách văn hóa cao để đứng đầu các ngành như văn hóa, giáo dục…

Thứ hai, cần bảo đảm xây dựng hệ giá trị văn hóa chuẩn mực cho người Việt vừa tiếp thu nét đẹp truyền thống vừa gắn với chân, thiện, mỹ, vừa hiện đại để công chúng nhất là người trẻ có định hướng đúng, tốt đẹp, có thể chủ động tiếp thu văn hóa nước ngoài nhưng miễn nhiễm với văn hóa ngoại lai. Hệ giá trị văn hóa chuẩn mực cần ngắn gọn, dễ nhớ, định hướng rõ ràng cho lý tưởng, thế giới quan, nhân sinh quan tốt đẹp, xuất phát từ truyền thống văn hóa đã được lựa chọn, duy trì và phù hợp với cuộc sống hiện đại thế kỷ XXI.

Thứ ba, gia đình là tế bào quan trọng trong xã hội Việt Nam, vì thế trong Dự thảo cần đề cập đến xây dựng nếp sống hòa thuận, hiếu lễ, nhân văn, hiện đại làm nền tảng chắc chắn cho việc triển khai thực hiện mọi quyết sách về văn hóa, liên quan đến văn hóa.

Trong các cuộc kháng chiến, cũng nhờ người lớn trong mọi nhà thấu suốt nghĩa lớn nên con cái đã ra trận đánh giặc với tâm thế “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Thời hiện đại, sẽ tới lúc các bậc phụ huynh trong các gia đình sẽ đồng lòng nói với con cháu rằng: hãy học hành thật giỏi, có tầm nhìn xa rộng, hiểu sứ mệnh đối với quốc gia dân tộc; đem hết tài năng, sáng tạo xây dựng, bảo vệ đất nước, hội nhập vững vàng. Và tư duy đó sẽ thành nhận thức chung, văn hóa chung của mọi gia đình Việt Nam.

Thứ tư, trong thời kỳ hội nhập, các phương tiện truyền thông hiện đại có thể liên tục truyền bá, phổ cập thông tin, hình ảnh, âm thanh… mọi mặt đời sống văn hóa, giá trị văn hóa cho công chúng. Công chúng ngày nay phân thành nhiều nhóm, không chỉ kết nối với cư dân trong nước mà còn với cư dân nước ngoài nhờ internet, mạng xã hội. Vì thế, để quảng bá hiệu quả sâu rộng hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam, trong giai đoạn tới cần sử dụng AI, công nghệ mới trong truyền thông số, truyền thông đa phương tiện tích cực hơn, bài bản hơn để có hiệu ứng mạnh mẽ, phục vụ cho mục tiêu giai đoạn sau 2025.

Thứ năm, cần xây dựng (trước hết chọn lọc thử nghiệm) một số ngành thuộc công nghiệp văn hóa vì đó là những ngành công nghiệp không khói có thể mang lại nhiều hiệu quả, kể cả lợi nhuận, không nên đầu tư dàn trải, phân mảnh. Ví dụ có thể tập trung cho điện ảnh (tập trung thể loại phim Việt Nam có lợi thế, dễ xã hội hóa, hợp thị hiếu công chúng, có thể lồng tiếng và phụ đề tiếng Anh để xuất khẩu); âm nhạc có giai điệu Việt nhưng có thể sáng tác ca từ tiếng nước ngoài và có thể tham dự biểu diễn trong thị trường khu vực, quốc tế; thời trang kết hợp ẩm thực cũng nên chú trọng phát triển. Các sản phẩm văn hóa nổi tiếng lâu đời, như: áo dài, nón quai thao, mẫu yếm đào… cần sớm làm thủ tục đăng ký bản quyền đúng luật quốc tế tránh bị tranh chấp bản quyền.

Thứ sáu, bên cạnh việc ban hành chính sách, tổ chức hành chính và nhiều phương thức đa dạng khác cần phải định hướng dư luận quốc gia thông qua các cơ quan báo chí, truyền thông, tạo thành nếp sống thường nhật, ý thức tự giác để mọi người luôn nghĩ đến, nói và hành động thống nhất và có tính kết nối. “Công luận của cả một quốc gia khi hình thành thì có thể rất cao thượng và có uy lực, nhưng điều ấy có được không phải là do nhân vật cao cả và có uy lực nào đó đề xướng để tạo thành mà lý do là công luận đã sinh ra từ sự dũng cảm, tự tin – nơi mỗi cá nhân trong cả tập thể xã hội, sau khi nó đã có được một số lượng lớn những người cùng tán thành một quan điểm nào đó tập hợp lại với nhau”3.

4. Kết luận

Nhà nước có sứ mệnh định ra các biện pháp khả thi, hiệu quả để phát triển văn hóa dân tộc, bảo tồn các giá trị văn hóa tốt đẹp, tiếp thu các giá trị thời đại để làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc, tạo thêm sức sống cho các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam (ở cả trong nước và nước ngoài có người Việt sinh sống). Một nền văn hóa phát triển, tiên tiến, hiện đại, mang đậm bản sắc tiến bộ của dân tộc sẽ là nền văn hóa có sức sống mãnh liệt, có sức kháng cự trước những tác động từ các yếu tố văn hóa bên ngoài, các yếu tố văn hóa không phù hợp và góp phần chống lại âm mưu của thế lực nước ngoài xâm phạm chủ quyền an ninh quốc gia, an ninh văn hóa đất nước.

Ngày nay, thế giới phẳng hơn, nhiều thông tin, dễ tiếp cận học hỏi hơn, trước hết là qua internet, có nhiều khía cạnh phải mạnh dạn tìm tòi, suy nghĩ, sáng tạo mới, tìm cách thử nghiệm, xây dựng mô hình thí điểm rồi phát triển, hoàn thiện và mang ra quy mô lớn, nhất là liên quan đến đặc thù văn hóa nghệ thuật, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Thực hành sinh ra hiểu biết. Hiểu biết tiến lên lý luận. Lý luận lãnh đạo thực hành”4. Lời dạy đó vẫn còn nguyên giá trị hôm nay.

Chú thích:
1. Góp ý dự thảo chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2023, văn hóa phải trở thành thương hiệu quốc gia Việt Nam. https://bvhttdl.gov.vn/gop-y-du-thao-chien-luoc-phat-trien-van-hoa-den-nam-2030-van-hoa-se-phai-tro-thanh-thuong-hieu-quoc-gia-viet-nam-20210723151738929.htm.
2. Lê Thanh Bình (2021). Truyền thông phát triển xã hội, văn hóa, ngoại giao văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 508.
3. Fuakuzawa Yukichi (2022). Bàn về văn minh (Lê Huy Vũ Nam và Nguyễn Anh Phong dịch). H. NXB Thế giới, tr. 173.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2002). Tập 1. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 247.