Nguyễn Xuân Thống
Phó Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân đang hướng về Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, việc lấy ý kiến rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội ngũ doanh nhân là lực lượng trực tiếp vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bài viết tổng hợp các góp ý của doanh nhân phản ánh nhu cầu thực tiễn của đời sống kinh tế, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của doanh nghiệp đối với việc xây dựng chính sách, vừa là chủ thể, vừa chịu tác động cũng như đồng hành, từ đó, góp phần kiểm chứng chất lượng, mức độ phù hợp và khả năng hiện thực hóa đường lối phát triển nêu trong Dự thảo Văn kiện XIV của Đảng.
Từ khóa: Doanh nhân, doanh nghiệp, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, lấy ý kiến Nhân dân, góp ý Dự thảo Văn kiện đại hội.
1. Đặt vấn đề
Từ thực tiễn hoạt động sản xuất – kinh doanh, đội ngũ doanh nghiệp đối mặt nhiều thách thức liên quan đến thể chế, môi trường kinh doanh, thực thi pháp luật và năng lực cạnh tranh quốc gia. Những ý kiến tập trung vào ba nhóm chủ đề lớn: (1) Vai trò của văn hóa và sức mạnh mềm trong nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; (2) Yêu cầu đẩy mạnh cải cách thể chế, hoàn thiện pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền hiện đại, liêm chính, kiến tạo và phục vụ; (3) Khẳng định và cụ thể hóa vai trò động lực của khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế phi chính thức, cùng những vấn đề về vốn, công nghệ, chuyển đổi số và phát triển thương hiệu quốc gia. Từ ba mạch này, có thể hình thành một bức tranh tương đối đầy đủ về những ưu tiên mà giới doanh nhân mong muốn được phản ánh sâu sắc hơn trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV.
2. Văn hóa và sức mạnh mềm nền tảng hình thành bản lĩnh doanh nhân và thương hiệu quốc gia
Từ góc nhìn doanh nghiệp, văn hóa không chỉ là lĩnh vực tinh thần mà trở thành nguồn lực tạo nên năng lực cạnh tranh và bản sắc thương hiệu. Mỗi sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam xuất hiện trên thị trường quốc tế không chỉ giới thiệu chất lượng hàng hóa mà còn truyền tải chuẩn mực văn hóa, gu thẩm mỹ, tinh thần sáng tạo và bản lĩnh của người Việt. Chẳng hạn, khi một doanh nghiệp đưa sản phẩm bánh sầu riêng, cà phê, trái cây chế biến, hàng dệt may, đồ gỗ hoặc sản phẩm công nghệ mang thương hiệu Việt Nam ra thị trường quốc tế, đồng thời doanh nghiệp đó cũng truyền tải cách nghĩ, gu thẩm mỹ, tinh thần hiếu khách, sự tỉ mỉ và bản lĩnh vượt khó của người Việt. Mỗi doanh nhân đều là một chủ thể truyền tải sức mạnh mềm văn hóa quốc gia.
Thực tế đã có các luận điểm coi văn hóa là sức mạnh mềm, là năng lượng gốc của dân tộc. Do đó, mỗi doanh nghiệp đã tiếp cận theo đặc thù của doanh nghiệp, trong đó xác định rõ sức mạnh, sự cạnh tranh và chiến lược xây dựng. Ví dụ điển hình như, một chuỗi cà phê thành công không chỉ bán đồ uống mà bán cả không gian văn hóa, bán cảm giác thân quen và niềm tự hào với bản sắc Việt. Hay một sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao không chỉ bán chất lượng mà bán cả câu chuyện về vùng đất, về người nông dân, về sự bền vững và trách nhiệm với môi trường. Chính vì vậy, Dự thảo Văn kiện nhấn mạnh văn hóa và con người Việt Nam là nền tảng tinh thần vững chắc, là “sức mạnh nội sinh quan trọng nhất của dân tộc”1. Cho thấy, doanh nhân được đặt vào vị trí chủ thể góp phần kiến tạo hình ảnh và uy tín quốc gia. Sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh có chất lượng cao, mang đậm bản sắc văn hóa Việt là minh chứng rõ nét cho sức mạnh mềm của đất nước.
Sức mạnh mềm văn hóa cũng là nền tảng tâm lý giúp doanh nhân Việt Nam tự tin hơn khi bước vào các thị trường khó tính, với tâm thế của người đi tìm cơ hội, di sản, và giá trị đặc trưng. Gắn với mục tiêu đến năm 2045 xây dựng một xã hội thịnh vượng, sáng tạo và nhân văn, đội ngũ doanh nhân được kỳ vọng có tri thức, có văn hóa, có trách nhiệm xã hội, biết tôn trọng luật chơi quốc tế và đồng thời biết giữ gìn cốt cách dân tộc. Điều này, doanh nhân càng dễ dàng lựa chọn chiến lược phát triển dựa trên giá trị lâu dài thay vì chỉ chạy theo lợi ích ngắn hạn.
Văn hóa kinh doanh cũng là một thành tố quan trọng của môi trường phát triển. Một đội ngũ doanh nhân có đạo đức, trách nhiệm xã hội, tôn trọng pháp luật, minh bạch trong quan hệ với người lao động, đối tác và cộng đồng sẽ góp phần xây dựng thị trường lành mạnh, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Khi Văn kiện Đại hội XIV đặt văn hóa và con người vào trung tâm, điều đó, đòi hỏi yêu cầu cao hơn đối với chuẩn mực của giới doanh nhân và mở rộng không gian để họ trở thành lực lượng tiên phong lan tỏa lối sống nhân văn, trung thực và sáng tạo.
3. Thể chế – nguồn lực, động lực và ổn định vĩ mô
Từ góc độ doanh nghiệp, thể chế thể hiện cụ thể trong từng đạo luật, nghị định, thông tư và quy trình thủ tục mà doanh nghiệp phải thực hiện khi đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy, những bất cập như chồng chéo, thiếu thống nhất, thiếu khả thi hay tình trạng “đúng luật nhưng khó làm” vẫn là rào cản lớn đối với hoạt động kinh tế. Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra thực trạng “luật thì đúng nhưng làm thì khó, các văn bản công phu nhưng xuống cơ sở vẫn vướng, cán bộ địa phương không dám ký, doanh nghiệp không dám làm, người dân phải đi xin những thứ lẽ ra phải được hưởng”2, giới doanh nhân cảm thấy đó là những bất cập rất sát thực tiễn.
Doanh nghiệp cần một hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch, dễ dự đoán; cơ chế giải thích chính sách rõ ràng; bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm; bảo đảm thực thi thống nhất giữa các cấp, các ngành. Khi giảm được chi phí, rủi ro pháp lý và tình trạng “xin – cho”, doanh nghiệp mới có thể đầu tư dài hạn và đổi mới sáng tạo. Điều này rất quan trọng với khu vực kinh tế tư nhân, chỉ cần một quyết định sai hoặc một vướng mắc kéo dài là có thể mất cơ hội, mất thị trường hoặc thậm chí phá sản.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện đại, kiến tạo phát triển, liêm chính, chuyên nghiệp, phục vụ Nhân dân. Đây cũng là những nội dung doanh nhân đặc biệt quan tâm, bởi Nhà nước pháp quyền mạnh là điều kiện bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, chống lạm quyền, ngăn chặn lợi ích nhóm và nâng cao niềm tin của giới đầu tư.
Nhà nước có quyền yêu cầu doanh nghiệp phải tuân thủ luật pháp, đóng thuế đầy đủ, bảo vệ môi trường, bảo đảm quyền lợi người lao động và không tận dụng kẽ hở để trốn tránh trách nhiệm. Khi Nhà nước và doanh nghiệp cùng đứng trên nền tảng pháp quyền, thể chế không chỉ là “hàng rào quản lý” mà trở thành “nguồn lực mềm” góp phần nâng cao uy tín quốc gia, củng cố niềm tin cho nhà đầu tư và đối tác quốc tế, giảm chi phí vốn, thu hút công nghệ cao và mở rộng không gian hợp tác. Đây cũng là lý do Chính phủ đã khẳng định: thể chế là động lực, là nguồn lực và là lợi thế cạnh tranh của một quốc gia.
Việc phát triển các mô hình kinh tế mới (như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, tài chính số) đòi hỏi khung pháp lý linh hoạt. Doanh nhân đề nghị Dự thảo Văn kiện thể hiện rõ tinh thần đổi mới mạnh mẽ hơn trong tư duy quản lý, thúc đẩy các cơ chế thử nghiệm chính sách có kiểm soát (sandbox), qua đó tạo không gian sáng tạo trong giới hạn an toàn, giúp kinh tế Việt Nam không bị bỏ lỡ các xu hướng toàn cầu.
4. Kinh tế tư nhân – động lực quan trọng nhất của nền kinh tế
Dự thảo Văn kiện xác định phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Đây là bước phát triển mới về tư duy, thể hiện sự nhất quán và mạnh mẽ hơn trong khẳng định vai trò của khu vực tư nhân trong mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, để kinh tế tư nhân phát huy đầy đủ vai trò động lực, cần phân tích đầy đủ đặc điểm cấu trúc của khu vực này: từ các tập đoàn tư nhân lớn đang vươn tầm khu vực, có dự án ra nước ngoài, tham gia sâu vào các ngành công nghiệp trọng điểm, đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ và khu vực kinh tế phi chính thức. Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam vẫn có quy mô nhỏ; khu vực phi chính thức đóng góp đáng kể vào GDP nhưng lại thiếu tiếp cận về vốn, công nghệ, bảo hiểm xã hội và cơ chế hỗ trợ. Họ không tiếp cận được vốn ưu đãi, không có hệ thống bảo hiểm xã hội đầy đủ, không có cơ chế hỗ trợ khi gặp rủi ro thiên tai, dịch bệnh, biến động thị trường.
Do vậy, cần thiết có cách tiếp cận phân tầng trong chính sách đối với kinh tế tư nhân. Đối với doanh nghiệp lớn, cần khung pháp lý ổn định, minh bạch, khả năng tiếp cận các dự án quy mô lớn, môi trường cạnh tranh bình đẳng,
chính sách khuyến khích dẫn dắt chuỗi giá trị. Với doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhu cầu cấp bách là tiếp cận vốn, hạ tầng số, đào tạo nhân lực, tư vấn pháp lý và hỗ trợ chuyển đổi số. Đối với hộ kinh doanh và khu vực phi chính thức, những chính sách “mềm” hơn, cần thủ tục đơn giản, khuyến khích chuyển dịch sang khu vực chính thức.
Để chuyển dịch sang khu vực chính thức, Nhà nước không chỉ có thêm nguồn thu mà còn tăng khả năng điều tiết, bảo vệ tốt hơn cho người lao động và nâng mức độ văn minh của thị trường. Điều này đòi hỏi trong Dự thảo Văn kiện cần nhấn mạnh hơn nội dung cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình đăng ký kinh doanh, liên thông dữ liệu giữa các cơ quan, phân cấp thực chất cho chính quyền cấp cơ sở để xử lý nhanh các thủ tục quy mô nhỏ. Kinh nghiệm từ mô hình chính quyền hai cấp cho thấy khi chính quyền cấp xã, phường gần dân hơn, hiểu doanh nghiệp hơn, việc giải quyết hồ sơ, thủ tục có thể nhanh gọn hơn nhiều nếu được trao đủ thẩm quyền và có cơ chế giám sát minh bạch.
Kinh tế tư nhân sẽ chỉ thực sự phát huy tối đa vai trò động lực khi môi trường kinh doanh vừa giàu cơ hội, vừa công bằng, vừa ít rủi ro thể chế. Với lãi suất đang ở mức tương đối thuận lợi, với các hiệp định thương mại tự do mở ra thị trường rộng lớn, với làn sóng chuyển dịch đầu tư đang hướng về khu vực an toàn và ổn định như Việt Nam. Do vậy, nếu biết tận dụng, khu vực tư nhân hoàn toàn có thể tạo ra bước nhảy vọt mới. Bên cạnh đó, đề ra các nhóm giải pháp rõ ràng gắn với thể chế, vốn, nhân lực và công nghệ để kinh tế tư nhân có thể trở thành động lực tăng trưởng nhanh và bền vững.
5. Doanh nhân – người kiến tạo niềm tin, giá trị và tương lai phát triển
Đằng sau các chủ trương về phát triển kinh tế tư nhân là đội ngũ doanh nhân – lực lượng trực tiếp tổ chức, kết nối, phân bổ nguồn lực và tạo việc làm cho xã hội. Niềm tin đối với đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước là yếu tố có ý nghĩa quyết định để doanh nhân mạnh dạn đầu tư dài hạn, đổi mới sáng tạo, mở rộng quy mô sản xuất và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng Dự thảo Văn kiện tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm tính ổn định, nhất quán và khả dự báo của chính sách; hoàn thiện cơ chế tham vấn doanh nghiệp trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách; nâng cao chất lượng thực thi ở các địa phương; khắc phục tình trạng “mỗi nơi hiểu một kiểu” hoặc “chính sách ban hành nhanh, hướng dẫn chậm” gây trở ngại cho hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đã chủ động chuyển đổi mô hình theo hướng xanh hơn, sạch hơn, bền vững hơn, sẵn sàng chấp nhận chi phí đầu tư công nghệ cao, thậm chí giảm lợi nhuận trong ngắn hạn để hướng tới giá trị lâu dài và uy tín thương hiệu. Khi Nhà nước có chính sách rõ ràng về kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, các doanh nghiệp sẽ có thêm động lực để trở thành lực lượng tiên phong trong tiến trình chuyển đổi.
Từ góc độ xây dựng Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, tiếng nói của đội ngũ doanh nhân chính là một phần tiếng nói của Nhân dân, mang màu sắc riêng của những người đang đứng trên tuyến đầu của mặt trận kinh tế. Họ có hiểu biết sâu sắc về thị trường, sự khốc liệt của cạnh tranh quốc tế và tác động cụ thể của từng thay đổi nhỏ trong chính sách. Việc tiếp thu, phân tích và hệ thống hóa, các góp ý từ đội ngũ doanh nhân sẽ giúp Văn kiện Đại hội XIV tăng thêm tính thực tiễn, nâng cao chiều sâu giải pháp và khả năng dự báo trước những thách thức và cơ hội của giai đoạn phát triển mới.
6. Kết luận
Nhìn tổng thể, các góp ý từ cộng đồng doanh nhân đối với Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV tập trung vào ba điểm cốt lõi: (1) Đường lối của Đảng tiếp tục khẳng định mạnh mẽ vai trò của văn hóa và con người, vai trò của thể chế – nguồn lực, vai trò của kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất, đồng thời biến những định hướng đó thành chính sách cụ thể “sức mạnh mềm quốc gia”.
(2) Đại hội XIV không chỉ là sự kiện chính trị trọng đại mà còn là thời điểm để cộng đồng doanh nhân gửi gắm niềm tin và khát vọng. Khi Văn kiện mở ra một tầm nhìn phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn năm 2045 với nền tảng văn hóa vững chắc, thể chế thông suốt và kinh tế tư nhân giữ vai trò trung tâm, đồng thời trao cho doanh nhân một sứ mệnh dài hạn, họ sẽ trở thành chủ thể kiến tạo, người đồng hành và người góp phần hiện thực hóa những mục tiêu phát triển mà Đảng và Nhân dân đã lựa chọn. (3) Xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, gắn với hệ thống giải pháp cụ thể, khả thi và nhất quán sẽ góp phần tạo dựng một Việt Nam thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và giàu bản sắc trong những thập niên tới.
Khi Văn kiện Đại hội XIV mở ra tầm nhìn phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn năm 2045, với nền tảng văn hóa vững chắc, thể chế thông suốt và động lực kinh tế tư nhân mạnh mẽ, đội ngũ doanh nhân sẽ có thêm niềm tin để đầu tư, cống hiến và khẳng định vai trò trong sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Chú thích:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Toàn văn, Dự thảo các Văn kiện Đại hội XIV của Đảng. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-du-thao-bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-tai-dai-hoi-xiv-cua-dang
2. Tổng Bí thư Tô Lâm “một đạo luật tốt là đạo luật đi được vào cuộc sống” https://diendandoanhnghiep.vn/tong-bi-thu-to-lam-mot-dao-luat-tot-la-dao-luat-di-duoc-vao-cuoc-song.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Bộ Chính trị (2021). Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.
3. Bộ Chính trị (2023). Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 về xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới.
4. Chính phủ (2025). Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 08/01/2025 về nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.



