Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu quy hoạch tỉnh Bắc Ninh

TS. Lê Cẩm Hà, ThS. Nguyễn Thị Tâm Anh
Học viện Hành chính và Quản trị công

(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công là yếu tố then chốt nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của địa phương. Trong bối cảnh chuyển đổi số, toàn cầu hóa và yêu cầu sáp nhập, đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, việc phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đang đối mặt với nhiều thách thức. Bài viết phân tích vai trò của các bên liên quan trong quá trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Bắc Ninh – địa phương có nhiều tiềm năng và đang hướng đến mục tiêu trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ cao, đô thị thông minh và hiện đại.

Từ khoá: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khu vực công, Bắc Ninh.

1. Đặt vấn đề

Phát triển nguồn nhân lực là một thuật ngữ rất quen thuộc và được dùng trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước, trong các công trình khoa học. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một cách hiểu thống nhất và bao quát đầy đủ nội hàm của thuật ngữ này.

Phát triển nguồn nhân lực theo góc độ hẹp, là khái niệm đồng nghĩa với đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, làm gia tăng giá trị cho con người, cả giá trị vật chất lẫn tinh thần, cả trí tuệ, tâm hồn cũng như kĩ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển. Nhiều tác giả lại tiếp cận phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa rộng bao gồm các hoạt động nhằm chuẩn bị cho người lao động theo kịp cơ cấu tổ chức khi nó thay đổi và phát triển trong tương lai. Các hoạt động này gắn liền với quản trị nhân lực trong tổ chức đó, như: hoạch định nhân lực, tuyển dụng nhân lực, bố trí sử dụng nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực,tạo điều kiện về môi trường làm việc kích thích động cơ, thái độ làm việc của người lao động nhằm đáp ứng mục tiêu và định hướng phát triển của tổ chức… Do đó, xét từ những góc độ tiếp cận trên, phát triển nguồn nhân lực tổng thể cách thức, biện pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền nhằm biến đổi về số lượng, chất lượng cơ cấu và phát huy tiềm năng nguồn nhân lực.

Trong các nghị quyết của Đảng, phát triển nhân lực chất lượng cao luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Ngay từ Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 của Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng đã đặt ra nhiệm vụ: chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, nhân lực chất lượng cao, người có tài năng, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở; cán bộ khoa học đầu ngành; cán bộ quản lý kinh doanh các doanh nghiệp lớn. Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI, XII đều tiếp tục khẳng định sự cần thiết phải xây dựng, hoàn thiện cơ chế nhân tài, nhân lực chất lượng cao, người có tài năng, nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Đặc biệt, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định rõ phương hướng “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao,…”1. Đồng thời, xác định một trong các đột phá chiến lược là: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt…”2.

Đường lối này được thể chế hóa trong nhiều văn bản pháp luật, như: Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019 và năm 2025), Nghị định số 140/2017/NĐ-CP ngày 05/12/2017 của Chính phủ về chính sách thu hút sinh viên xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ và gần đây là Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn 2050 theo Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 31/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt, quy định mới trong Luật Cán bộ, công chức năm 2025 mở ra cơ chế đặc biệt để thu hút và trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công.

Sau khi sáp nhập, tỉnh Bắc Ninh được thành lập trên cơ sở hợp nhất Bắc Ninh và Bắc Giang, với diện tích 4.718,31 km², dân số hơn 3,6 triệu người và 99 đơn vị hành chính cấp xã. Tỉnh đặt mục tiêu trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ cao, đô thị thông minh, hiện đại. Để đạt được mục tiêu này, Bắc Ninh cần nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, kỹ năng số, tư duy sáng tạo, tinh thần học tập suốt đời và khả năng thích ứng nhanh. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chất lượng nhân lực chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế, tỷ lệ lao động qua đào tạo cao nhưng thiếu kỹ năng mềm, kỹ năng số; mối liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp còn hạn chế. Vì vậy, việc xác định rõ vai trò của các bên liên quan là cần thiết nhằm bảo đảm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu quy hoạch tỉnh.

2. Vai trò của các bên liên quan

Tỉnh Bắc Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 phải bảo đảm phù hợp, thống nhất, đồng bộ, kế thừa quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh (trước hợp nhất) đã được phê duyệt. Điều chỉnh quy hoạch tỉnh phải thể hiện rõ quan điểm phát triển thống nhất, định hướng đột phá và tổ chức, sắp xếp lại không gian phát triển kinh tế – xã hội hiệu quả. Nội dung điều chỉnh quy hoạch tỉnh phải bám sát chủ trương, đường lối của Đảng: chính sách, pháp luật của Nhà nước, phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp, hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt mức hai con số trong giai đoạn 2026-2030 và trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trước năm 2030.

Muốn đạt được mục tiêu trên phải đề cập đến vai trò quan trọng của các cấp chính quyền và hệ thống chính trị trong hoạch định chính sách, điều phối và định hướng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ nhất (nhiệm kỳ 2025-2030) xác định ba khâu đột phá, trong đó có “xây dựng, đào tạo, thu hút và trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt đội ngũ chuyên gia về dịch vụ, chuyển đổi số, công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ”. Bắc Ninh đang có nhiều lợi thế trong thực hiện các khâu đột phá vì Bắc Ninh là một trong những “thủ phủ công nghiệp điện tử” của Việt Nam với sự hiện diện của các tập đoàn lớn, như: Samsung, Canon, Foxconn, Hanwha, Goertek, Foster, Microsoft Việt Nam. Các doanh nghiệp này hình thành chuỗi sản xuất – cung ứng công nghệ điện tử, linh kiện, vi mạch, cơ khí chính xác, tự động hóa; tập trung nhiều khu công nghiệp. Bắc Ninh thuộc nhóm 10 tỉnh dẫn đầu cả nước về chuyển đổi số. Hệ thống hạ tầng số (mạng 5G, cáp quang, trung tâm dữ liệu) đang được đầu tư đồng bộ.

Bắc Ninh thu hút nhiều trường đại học chất lượng cao có cơ sở trên địa bàn và mạng lưới cơ sở đào tạo nghề và công nghệ phát triển, điều này cũng thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện nay, tỉnh đã triển khai chương trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao giai đoạn 2021-2030, ưu tiên đào tạo nhân lực công nghệ thông tin, điện tử, tự động hóa, logistics, thu hút chuyên gia, kỹ sư công nghệ cao, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đào tạo tại chỗ.

Bắc Ninh là địa phương đầu tiên trong cả nước ban hành chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và ngành công nghiệp bán dẫn phục vụ nền công nghiệp công nghệ số khẳng định quyết tâm của tỉnh trở thành đối tác tin cậy, là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng sản xuất bán dẫn toàn cầu. Tỉnh đã triển khai giải pháp như kết nối giữa trường nghề/cao đẳng với doanh nghiệp, tổ chức phiên giao dịch việc làm, ứng dụng số hóa để hỗ trợ người lao động tìm việc và doanh nghiệp tuyển nhân lực. Về đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật, công nghệ cao: trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, tỉnh có nội dung về “hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực doanh nghiệp để cải thiện hoạt động môi trường, đào tạo nhân lực kỹ thuật trong các nghề thuộc lĩnh vực kinh tế xanh.

Mặc dù từ trung ương đến các địa phương đều đã có chính sách nhưng chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao của các bộ, ngành và địa phương chưa có văn bản tổng thể, định hướng chiến lược dài hạn rõ ràng, chưa đầy đủ về nhân lực chất lượng cao. Việc triển khai chính sách còn gặp thách thức như đào tạo nghề vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu nhân lực công nghệ cao, chế độ đãi ngộ với nhân lực chất lượng cao đôi khi chưa đủ sức “giữ chân” nhân tài lâu dài. Điều này đã được tổng hợp từ nhiều địa phương có nhiều chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, như: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng…

Bên cạnh vai trò quan trọng của các cấp chính quyền và hệ thống chính trị thì vai trò của người sử dụng lao động rất quan trọng đó các cơ quan, tổ chức khu vực công và các doanh nghiệp là nơi sử dụng trực tiếp nguồn nhân lực chất lượng cao. Các cơ quan, tổ chức khu vực công và doanh nghiệp xác định nhucầu nhân lực thực tế để định hướng đào tạo; tham gia hợp tác đào tạo, tài trợ học bổng, xây dựng mô hình “học đi đôi với hành”; tạo môi trường làm việc, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, giúp người lao động phát triển năng lực; đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ cho công nhân, kỹ sư, cán bộ kỹ thuật. Đối với các doanh nghiệp tại Bắc Ninh, các tập đoàn lớn, như: Samsung, Canon, Foxconn, Goertek, Hanwha đã phối hợp với các trường cao đẳng và đại học địa phương trong công tác đào tạo, thực tập và tuyển dụng kỹ sư, công nhân kỹ thuật.

Các cơ sở giáo dục, đào tạo và đào tạo nghề là bên liên quan then chốt, nguồn cung cấp và phát triển năng lực cho người lao động. Họ có vai trò đổi mới chương trình, nội dung và phương phápđào tạo theo hướng gắn với thực tiễn và nhu cầu thị trường, tăng cường liên kết “nhà trường – doanh nghiệp” trong đào tạo, thực tập và tuyển dụng, nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên, cập nhật công nghệ mới, đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn cho lao động trong các khu công nghiệp. Chẳng hạn, Trường Đại học Kinh Bắc, Trường Cao đẳng Công nghiệp Bắc Ninh và một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp đang triển khai chương trình đào tạo kỹ thuật viên điện tử, cơ điện tử, logistics theo đặt hàng của doanh nghiệp.

Về phía người lao động, họ là trung tâm của quá trình phát triển nguồn nhân lực. Mỗi cá nhân cần chủ động học tập suốt đời, rèn luyện kỹ năng nghề, nâng cao trình độ số, tư duy sáng tạo, thái độ làm việc chuyên nghiệp và tinh thần trách nhiệm – những yếu tố quyết định năng suất và chất lượng lao động. Ngoài ra, các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp và tổ chức quốc tế cũng đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và tư vấn chính sách. Hiệp hội doanh nghiệp giúp phản ánh nhu cầu nhân lực, kết nối doanh nghiệp với nhà trường. Các tổ chức quốc tế, như: JICA, KOICA, ILO hỗ trợ chuyển giao công nghệ, tài trợ chương trình đào tạo, trao đổi kinh nghiệm quốc tế. Các viện nghiên cứu, chuyên gia góp phần dự báo và đề xuất giải pháp phù hợp với xu hướng phát triển.

3. Một số giải pháp

Thứ nhất, thiết lập mô hình “Tam giác hợp tác – Nhà nước, Nhà trường, Doanh nghiệp”, trong đó: Nhà nước giữ vai trò định hướng và tạo hành lang pháp lý; nhà trường cung cấp kiến thức và kỹ năng; doanh nghiệp xác định nhu cầu thị trường và tạo môi trường thực hành.

Thứ hai, tỉnh cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội; ban hành đề án thu hút, trọng dụng nhân lực cho các lĩnh vực trọng điểm như công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ logistics, điện tử, bán dẫn, công nghệ số, y tế và giáo dục. Cần có chính sách cụ thể cho chuyên gia, trí thức, nhà khoa học, giảng viên trình độ cao; hỗ trợ học bổng, đào tạo lại, bồi dưỡng kỹ năng số, ngoại ngữ và quản lý; đồng thời cải thiện môi trường sống – làm việc để giữ chân nhân tài.

Thứ ba, xây dựng Trung tâm dự báo và kết nối cung – cầu lao động, triển khai chương trình đào tạo đặc thù theo ngành nghề mũi nhọn; tăng đầu tư ngân sách và hạ tầng giáo dục và đào tạo, đặc biệt tại các khu công nghiệp và khu công nghệ cao.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực thông qua cơ chế đánh giá, đãi ngộ công bằng và khuyến khích đổi mới sáng tạo, bảo đảm nhân lực chất lượng cao được phát huy đúng năng lực.

4. Kết luận

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nền tảng để Bắc Ninh thực hiện thành công quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Trong tiến trình này, mỗi bên liên quan đều giữ vai trò không thể thay thế: chính quyền định hướng và tạo điều kiện; tổ chức, doanh nghiệp là động lực; nhà trường là nơi đào tạo và phát triển; người lao động là trung tâm; tổ chức xã hội và quốc tế là cầu nối hỗ trợ. Sự phối hợp đồng bộ giữa các bên sẽ hình thành hệ sinh thái nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, góp phần đưa Bắc Ninh trở thành trung tâm công nghiệp – công nghệ hàng đầu khu vực.

Chú thích:
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 203, 204.
Tài liệu tham khảo:
1. UBND tỉnh Bắc Ninh (2022). Quy hoạch tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn 2050.
2. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Bắc Ninh (2023). Báo cáo tình hình phát triển nguồn nhân lực địa phương.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021). Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam giai đoạn 2021-2030.
4. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) (2022). Phát triển kỹ năng và nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số.
5. Nguyễn Thị Lan Anh (2023). Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở các tỉnh công nghiệp vùng Bắc Bộ. Tạp chí Kinh tế và Phát triển.
6. Bắc Ninh sẵn sàng đón làn song đầu tư FDI. https://vneconomy.vn/bac-ninh-san-sang-don-lan-song-fdi.htm