Xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới – một chủ trương giàu tính khoa học và thực tiễn của Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới

PGS.TS. Hoàng Anh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, Đảng xác định chủ trương xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới. Đây là một chủ trương đúng đắn, giàu tính khoa học và thực tiễn, được luận giải một cách toàn diện, sâu sắc, thuyết phục. Trên cơ sở làm rõ đặc trưng và mục tiêu của nền giáo dục quốc dân hiện đại, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm góp phần thực hiện hiệu quả chủ trương nêu trên.

Từ khóa: Văn kiện Đại hội XIV, nền giáo dục quốc dân hiện đại, đặc trưng, mục tiêu, giải pháp.

1. Đặt vấn đề

Trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, Đảng xác định chủ trương xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới. Đây là một chủ trương đúng đắn, giàu tính khoa học và thực tiễn, được luận giải một cách toàn diện, sâu sắc, thuyết phục. Nếu được đưa vào cuộc sống, chủ trương này có thể tạo ra những bước đột phá mạnh mẽ giúp nền giáo dục quốc dân Việt Nam khắc phục được những hạn chế, bất cập hiện thời, nhanh chóng vươn mình, đạt chuẩn về nhiều phương diện, có tính hội nhập cao, phù hợp với yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới.

2. Đặc trưng và mục tiêu của nền giáo dục quốc dân hiện đại

Nền giáo dục quốc dân hiện đại là một hệ thống giáo dục do Nhà nước giữ vai trò chủ đạo tổ chức, quản lý và cung cấp các dịch vụ giáo dục cho toàn thể nhân dân, được xây dựng và vận hành để đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội nhanh chóng và sâu sắc của thời đại mới.

2.1. Đặc trưng

Nền giáo dục quốc dân hiện đại có các đặc trưng cơ bản, sau đây:

Tính toàn dân và phổ cập: bảo đảm mọi người dân trong độ tuổi quy định, không phân biệt điều kiện kinh tế – xã hội được tiếp cận nền giáo dục cơ bản (thường là giáo dục nghĩa vụ trong một số năm nhất định).

Chất lượng và hiệu quả: không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, chú trọng giáo dục tố chất (đạo đức, trí lực, thể chất) và kỹ năng thực tiễn, bảo đảm người học có khả năng thích ứng với môi trường làm việc và đời sống hiện đại.

Thích ứng và linh hoạt: có khả năng điều chỉnh, thích ứng nhanh chóng với nhu cầu phát triển của kinh tế tri thức và thị trường lao động.

Hiện đại hóa và hội nhập: áp dụng mạnh mẽ chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo (AI) vào quản lý, giảng dạy và học tập. Hướng tới đạt ngang tầm khu vực và thế giới, tham gia vào quá trình quốc tế hóa giáo dục để người học có thể cạnh tranh trong môi trường toàn cầu.

2.2. Mục tiêu

Mục tiêu cốt lõi của nền giáo dục quốc dân hiện đại gồm:

(1) Phát triển con người toàn diện: bồi dưỡng cho người học cả về kiến thức, cả về kỹ năng, đạo đức, khả năng sáng tạo, tư duy phản biện.

(2) Cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao: đào tạo ra nguồn nhân lực có khả năng lao động trí óc cao, đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất và dịch vụ hiện đại, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

(3) Thúc đẩy học tập suốt đời: tạo điều kiện và cơ hội để mọi người dân có thể liên tục học hỏi, nâng cao trình độ, kỹ năng trong suốt cuộc đời.

3. Các giải pháp trọng yếu nhằm xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại

Thứ nhất, đổi mới quản lý và quản trị giáo dục.

Hoàn thiện thể chế, chính sách, rà soát, xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách để tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thúc đẩy đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Đổi mới quản trị nhà trường, tăng cường tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, theo hướng hiện đại, công khai, minh bạch.

Xây dựng hạ tầng số, phát triển hệ thống hạ tầng số tổng thể, đồng bộ; cải thiện hạ tầng Internet và trang thiết bị dạy học để phục vụ chuyển đổi số.

Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ và phương pháp giảng dạy.

Phát triển nguồn nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng số và năng lực chuyên môn cho cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên, khuyến khích tư duy sáng tạo và khả năng thích nghi với thay đổi.

Đổi mới phương pháp dạy và học, chuyển từ truyền thụ kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất người học; chú trọng các phương pháp dạy học trải nghiệm, khám phá, lấy người học làm trung tâm, tránh học chỉ để thi.

Đa dạng hóa chương trình học, mở rộng chương trình học bao gồm cả khoa học, nghệ thuật, văn hóa, thể thao và các giá trị đạo đức, nhân văn để phát triển toàn diện.

Thứ ba, đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ.

Ứng dụng công nghệ, tăng cường ứng dụng AI, dữ liệu lớn (Big Data), phần mềm chuyên dụng trong dạy, học và quản lý giáo dục để xây dựng hệ thống giáo dục thông minh.

Phát triển tài nguyên số, xây dựng và mở rộng các nền tảng học tập kỹ thuật số dễ tiếp cận (online, radio/TV), tài nguyên học liệu số.

Bảo mật thông tin, triển khai các biện pháp bảo mật mạnh mẽ để bảo vệ thông tin cá nhân của người dạy/người học trong môi trường số.

Thứ tư, tăng cường hội nhập quốc tế và nâng cao trình độ tiếng Anh.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, liên kết đào tạo với các trường đại học, tổ chức giáo dục hàng đầu thế giới; khuyến khích các cơ sở giáo dục trong nước mở văn phòng hoặc chương trình giáo dục ở nước ngoài. Tập trung nâng cao trình độ tiếng Anh cho người dạy và người học các cấp; tăng cường giảng dạy các môn học bằng tiếng Anh tại các nơi có điều kiện.

Các giải pháp nói trên đều phù hợp và có tính khả thi cao, song cần bổ sung, làm rõ một số nội dung liên quan các giải pháp như sau:

Một là, nên xây dựng triết lý giáo dục quốc gia phù hợp điều kiện mới. Từng nhà trường cần xây dựng triết lý giáo dục riêng nhưng vẫn phải vừa phù hợp xu thế chung, vừa bám sát đặc thù về chức năng, nhiệm vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”1 vẫn là nền tảng cốt lõi để xây dựng triết lý giáo dục ở tầm quốc gia cũng như ở từng cơ sở giáo dục.

Thông qua việc tiếp cận triết lý giáo dục, người học sẽ nhận thức được mục đích cao nhất của việc học là để làm việc tốt, để trở thành chuyên gia chứ không phải là để lấy bằng cấp phục vụ cho sự thăng tiến. Triết lý giáo dục là căn cứ để đất nước và từng cơ sở giáo dục xây dựng và thực hiện mục tiêu, kế hoạch, lộ trình phát triển.

Hai là, xây dựng đội ngũ nhà giáo ngang tầm nhiệm vụ, đủ về số lượng, cao về chất lượng, phù hợp về cơ cấu. Trong số đó, có ít nhất 10% là nhà giáo giỏi, có uy tín cao trong xã hội, được đồng nghiệp và người học đánh giá tốt, có những đóng góp nổi bật cho sự nghiệp giáo dục. Đây chính là đội ngũ giữ vai trò chính yếu trong việc tạo dựng thương hiệu, bảo đảm khả năng cạnh tranh của nhà trường. Lãnh đạo nhà trường phải là các nhà giáo nằm trong 10% nói trên, đồng thời có năng lực quản lý tốt.

Các nhà trường cần sớm xây dựng khung năng lực vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp cho các nhà giáo; trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tiêu chuẩn về trình độ ngoại ngữ (tiếng Anh)2 và khả năng làm việc trong môi trường số. Đây là căn cứ quan trọng để phát triển đội ngũ nhà giáo đạt chuẩn về mọi mặt, đủ điều kiện hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao trong bối cảnh hiện nay. Giảng viên ở bậc đại học phải đồng thời giữ ba vai trò: vừa là nhà giáo, vừa là nhà khoa học, vừa là nhà hoạt động thực tiễn.

Điều kiện tiên quyết để thực hiện giải pháp này là phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng và môi trường làm việc hiện đại, năng động theo hướng “cộng đồng trách nhiệm, sẻ chia lợi ích, khuyến khích sáng tạo” dành cho các nhà giáo, các nhà quản lý giáo dục. Chỉ khi nào họ được trân trọng cả về vật chất lẫn tinh thần, được trang bị đầy đủ các phương tiện tác nghiệp, họ mới toàn tâm, toàn ý làm việc và cống hiến cho sự nghiệp chung.

Ba là, đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo hướng “thực chứng – hành động – lợi ích”. Nội dung bài giảng phải gắn liền với thực tiễn, phải mang hơi thở ấm nóng của cuộc sống, tác động mạnh mẽ vào lý trí và cảm xúc người học, giúp họ thay đổi nhận thức và hành vi, trưởng thành hơn về mọi phương diện, có điều kiện đóng góp thiết thực vào sự phát triển đất nước. Cùng với đó, tăng cường áp dụng phương pháp giảng dạy hiện đại, biến giảng đường thành nơi thử nghiệm tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng sống và kỹ năng làm việc.

Bốn là, xây dựng và tổ chức triển khai mô hình quản lý kiến tạo phát triển. Thực hiện phân cấp, phân quyền, tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo dục, nhất các cơ sở giáo dục đại học. Phân công nhiệm vụ theo phương châm “rõ người, rõ việc rõ thẩm quyền, rõ trách nhiệm, rõ thời gian, rõ kết quả”. Tăng cường cạnh tranh lành mạnh. Đánh giá đội ngũ các nhà giáo, các nhà quản lý giáo dục đa chiều, theo nhiều kênh thông tin; khen trúng, thưởng xứng.

Năm là, tổ chức thi tuyển vào các chức danh lãnh đạo, quản lý tại các cơ sở giáo dục – đào tạo. Việc thi tuyển phải công khai, minh bạch, có sự giám sát chặt chẽ của xã hội, nhất là của báo chí – truyền thông. Nội dung thi tuyển phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, bám sát vị trí việc làm của ứng viên. Các thành viên Hội đồng Giám khảo phải là các nhà lãnh đạo, quản lý giàu kinh nghiệm, đồng thời là chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực liên quan.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 208.
2. Giảng viên chính, giảng viên cao cấp; phó trưởng khoa, trưởng khoa; phó hiệu trưởng, hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học còn từ 10 năm công tác tính đến thời điểm nghỉ hưu theo quy định, phải có trình độ tiếng Anh Ielts 6.0 trở lên.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
2. Định hướng mới, nền giáo dục có thể bước sang giai đoạn phát triển thực chất hơn. https://vietnamnet.vn/dinh-huong-moi-nen-giao-duc-co-the-buoc-sang-giai-doan-phat-trien-thuc-chat-hon-2456121.html