TS. Tạ Văn Việt
Học viện Hành chính và Quản trị công
ThS. Vũ Thị Minh Tâm
Trường Đại học Hạ Long
ThS. Phan Thùy Linh
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
TS. Chu Đức Hà
Đại học Quốc gia Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích năng lực quản trị quốc gia qua các văn kiện dự thảo trình Đại hội XIV của Đảng, xem đây như một chỉ dấu cho sự đổi mới tư duy lãnh đạo và năng lực cầm quyền trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số và phát triển bền vững. Trên cơ sở tiếp cận khung lý thuyết trên thế giới về quản trị hiện đại, nghiên cứu xác định bốn nhóm năng lực cấu thành năng lực quản trị quốc gia, gồm: hoạch định và định hướng chính sách; tổ chức thực thi; giám sát, đánh giá và phản hồi; huy động và điều phối nguồn lực. Kết quả phân tích cho thấy, các dự thảo văn kiện đã thể hiện bước tiến rõ rệt trong tư duy quản trị của Đảng, qua đó, đề xuất các khuyến nghị nhằm hoàn thiện thể chế, đổi mới cơ chế phối hợp liên ngành, phát triển nguồn nhân lực số, tăng cường giám sát xã hội và tối ưu hóa phân bổ nguồn lực công… góp phần củng cố nền tảng lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, chuyên nghiệp, dân chủ và phục vụ, hướng tới mục tiêu phát triển Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Từ khóa: Năng lực quản trị; quốc gia; Dự thảo các Văn kiện Đại hội XIV.
1. Đặt vấn đề
Trong tiến trình phát triển của đất nước, năng lực quản trị quốc gia là thước đo của hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của hệ thống chính trị. Trong bối cảnh đất nước ta đang hoàn thiện thể chế phát triển gắn với thực hiện đồng bộ 4 chuyển đổi (chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực) và xác lập mô hình tăng trưởng mới lấy khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực then chốt đã đặt ra yêu cầu nâng cao năng lực quản trị quốc gia để bảo đảm phát triển bền vững, giữ vững ổn định chính trị – xã hội và nâng cao vị thế quốc gia. Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng đã xác định rõ định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2026 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 qua 5 quan điểm chỉ đạo, trong đó đã thể hiện rõ tầm quan trọng của năng lực quản trị quốc gia như kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, xác lập mô hình tăng trưởng mới, đặt con người trở thành nguồn lực nội sinh cho sự phát triển, vận hành thông suốt, đồng bộ, hiệu quả tổ chức bộ máy mới của hệ thống chính trị… Hay trong Dự thảo chương trình hành động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, ở nhiệm vụ số 12, với 10 nhóm giải pháp tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng.
Việc phân tích năng lực quản trị quốc gia từ các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV có ý nghĩa đặc biệt trong việc đánh giá mức độ phù hợp giữa định hướng chính trị của Đảng và yêu cầu của nền quản trị hiện đại. Năng lực quản trị quốc gia là khả năng của Nhà nước trong việc định hướng, hoạch định và tổ chức thực thi các chính sách nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm ổn định chính trị. Theo World Bank, năng lực quản trị quốc gia phản ánh mức độ hiệu quả của chính phủ trong việc thiết kế và triển khai chính sách, khả năng kiểm soát tham nhũng, bảo đảm trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong hoạt động của khu vực công1. Năng lực quản trị quốc gia thường được cấu thành bởi ba yếu tố cơ bản: thể chế, bộ máy và con người2. Thể chế là nền tảng của quản trị, thể hiện ở hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách và chuẩn mực vận hành của Nhà nước. Bộ máy hành chính là công cụ trực tiếp tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, thể hiện qua cơ cấu tổ chức, cơ chế phối hợp và phương thức điều hành. Con người là nhân tố trung tâm quyết định chất lượng và hiệu quả của quản trị quốc gia. Năng lực quản trị được đánh giá thông qua khả năng của bộ máy nhà nước trong việc hoạch định chính sách công, tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá và điều chỉnh kịp thời.
Tiếp cận này tương đồng với khung phân tích của OECD, trong đó năng lực quản trị quốc gia được xem xét qua bốn nhóm năng lực chính: (1) Năng lực hoạch định và định hướng chính sách; (2) Năng lực tổ chức thực thi; (3) Năng lực giám sát và đánh giá; (4) Năng lực huy động và điều phối nguồn lực3.
Việc xác định rõ các yếu tố cấu thành năng lực quản trị quốc gia giúp tiếp cận các dự thảo văn kiện trên một cách hệ thống, chỉ ra những điểm mới trên phương diện quản trị hiện đại. Qua đó, bài viết một mặt tiếp thu, chỉ ra, khu biệt và lập luận về năng lực quản trị quốc gia trong bối cảnh mới, mặt khác cũng gợi mở, đề xuất một số phát hiện mới nhằm góp ý, nâng cao chất lượng của các văn kiện dự thảo trình Đại hội nói riêng và năng lực quản trị quốc gia nói chung trong nhiệm kỳ tiếp theo.
2. Nhận diện năng lực quản trị quốc gia qua các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV
2.1. Năng lực hoạch định và định hướng chính sách
Năng lực hoạch định và định hướng chính sách là trụ cột đầu tiên, đóng vai trò nền tảng trong cấu trúc năng lực quản trị quốc gia thể hiện ở khả năng xác lập tầm nhìn phát triển, xây dựng chiến lược dài hạn và xác định các ưu tiên chính sách dựa trên bằng chứng thực tiễn, phản ánh mức độ khoa học, chủ động và linh hoạt của bộ máy lãnh đạo – quản lý trong việc chuyển hóa mục tiêu chính trị thành chương trình hành động cụ thể4. Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng thể hiện rõ năng lực hoạch định thông qua việc xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, kiếntạo hệ sinh thái phát triển mới, đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, trong đó thể chế chính trị là then chốt, thể chế kinh tế là trọng tâm. Quan điểm chỉ đạo, hoạch định trong dự thảo cho thấy sự chuyển đổi mạnh mẽ từ mô hình tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ sang mô hình tăng trưởng dựa trên tri thức, đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ, thể hiện rõ nét của tư duy quản trị hiện đại, đặt trọng tâm vào tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên mới. Điểm nổi bật trong dự thảo thể hiện năng lực hoạch định quốc gia đó là Mục IV – Xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính (điều này cũng đang được định hướng chính sách cụ thể thông qua bộ tứ Nghị quyết trụ cột phát triển đất nước). Đối sánh theo UNDP5, năng lực hoạch định của một quốc gia được đánh giá không chỉ qua việc xác định mục tiêu đúng đắn mà còn ở khả năng dự báo rủi ro, nắm bắt cơ hội và lựa chọn công cụ chính sách phù hợp. Dự thảo đã phần nào thể hiện được tư duy này khi nhấn mạnh yêu cầu phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Năng lực hoạch định và định hướng chính sách trong các văn kiện dự thảo còn thể hiện ở sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Việc đặt con người ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và nhấn mạnh giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, cho thấy định hướng chính trị đã tiệm cận với nguyên tắc của quản trị phát triển bền vững thể hiện qua Mục V – Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hoá và con người Việt Nam của Dự thảo Báo cáo Chính trị cụ thể hóa qua tiểu mục 2 và 3 Mục II – Dự thảo Chương trình hành động. Tư duy này phù hợp với khung đánh giá của Ngân hàng Thế giới (World Bank)6, trong đó năng lực hoạch định được xem là hiệu quả khi các chính sách phát triển bảo đảm được sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Dự thảo đã bước đầu thể hiện tư duy tích hợp trong hoạch định chính sách, thể hiện ở việc kết nối các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, môi trường và an ninh quốc phòng thành một tổng thể thống nhất. Đây là một đặc trưng của mô hình quản trị quốc gia hiệu quả khi năng lực hoạch định không chỉ được hiểu là khả năng ra quyết định mà còn là khả năng kết nối, điều phối và dung hòa lợi ích giữa các lĩnh vực phát triển7. Việc đặt trọng tâm vào đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học – công nghệ và phát huy nguồn lực con người là minh chứng cho sự chuyển dịch từ tư duy quản lý hành chính truyền thống sang tư duy quản trị dựa trên tri thức.
2.2. Năng lực tổ chức thực thi chính sách
Năng lực tổ chức thực thi chính sách là yếu tố trung tâm quyết định hiệu quả quản trị quốc gia. Nếu năng lực hoạch định phản ánh tư duy chiến lược và khả năng xác lập mục tiêu phát triển thì năng lực thực thi chính là thước đo thực tế cho năng lực của bộ máy nhà nước trong việc chuyển hóa ý chí chính trị thành kết quả cụ thể. Theo OECD8, một nền quản trị hiệu quả phải bảo đảm được khả năng hành động, tức là năng lực của hệ thống thể chế và hành chính trong việc triển khai chính sách công bằng, minh bạch và có trách nhiệm giải trình. Điều này được thể hiện rõ nét qua Dự thảo Chương trình hành động với việc xác lập rõ nhiệm vụ chủ yếu để thực thi chính sách và thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội đã đề ra. Năng lực tổ chức thực thi chính sách bao gồm ba nội dung cốt lõi: (1) Thiết lập cơ chế phân công, phân cấp, phân quyền hợp lý, nhằm bảo đảm tính chủ động, linh hoạt và trách nhiệm của các cấp chính quyền; (2) Năng lực điều phối và phối hợp liên ngành trong tổ chức thực hiện chính sách, khả năng huy động sự tham gia của các chủ thể ngoài nhà nước trong quá trình thực hiện; (3) Năng lực ứng dụng công nghệ, quản lý tri thức và cải cách quy trình hành chính.
Qua Dự thảo Chương trình hành động, năng lực tổ chức thực thi chính sách được thể hiện qua việccụ thể hóa và tổ chức thực hiện hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng, bám sát mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, định hướng phát triển, nhiệm vụ trọng tâm và các đột phá chiến lược. Chương trình hành động đề ra những nhiệm vụ, đề án, công trình, dự án quan trọng, có tính chiến lược trong giai đoạn 2026 – 2030, phân công trách nhiệm cụ thể, rõ nguồn lực, tiến độ và các điều kiện cần thiết để thực hiện, làm căn cứ quan trọng để các cấp, các ngành thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu Đại hội XIV đề ra. Trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình hành động, Dự thảo yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng phải nghiêm túc quán triệt sâu sắc phương châm: phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc; lấy sự hài lòng, tín nhiệm của người dân, doanh nghiệp và hiệu quả công việc làm tiêu chí đánh giá.
Các đột phá chiến lược được nhấn mạnh trong Dự thảo trên 3 bình diện: (1) Đột phá về thể chế; (2) Đột phát phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và đổi mới công tác cán bộ; (3) Đột phá phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại (được thể hiện chi tiết qua các Phụ lục kèm theo của Dự thảo Chương trình hành động).
2.3. Năng lực giám sát, đánh giá và phản hồi chính sách
Năng lực giám sát, đánh giá và phản hồi chính sách là một cấu phần quan trọng trong chu trình quản trị quốc gia, phản ánh khả năng tự điều chỉnh và học hỏi của hệ thống chính trị. Theo lý thuyết quản trị công hiện đại, đây là giai đoạn cuối của chu trình chính sách, song cũng là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tính bền vững và hiệu quả của hoạt động quản trị9. Giám sát và đánh giá giúp Nhà nước phát hiện kịp thời các sai lệch trong quá trình thực thi, đồng thời cung cấp dữ liệu phục vụ việc điều chỉnh chính sách, nâng cao năng lực phản ứng trước biến động của môi trường kinh tế – xã hội. Năng lực giám sát và đánh giá chính sách bao gồm khung pháp lý và thể chế cho hoạt động giám sát, bao gồm các quy định về trách nhiệm giải trình, báo cáo định kỳ, cơ chế tiếp nhận và xử lý phản ánh của người dân, doanh nghiệp; hệ thống tổ chức thực hiện, thể hiện qua vai trò và năng lực của các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội; phương pháp và công cụ đánh giá, bao gồm việc sử dụng dữ liệu định lượng, định tính và các chỉ số đo lường hiệu quả chính sách; cơ chế phản hồi chính sách, bảo đảm thông tin từ hoạt động giám sát được phản ánh trở lại vào quá trình hoạch định và điều hành, hình thành chu trình chính sách khép kín10.
Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng thể hiện rõ yêu cầu nâng cao năng lực giám sát, đánh giá và phản hồi thông qua việc đề cao nguyên tắc kỷ luật, kỷ cương trong hệ thống chính trị; tăng cường công khai, minh bạch; đẩy mạnh kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Những định hướng này cho thấy tư duy quản trị quốc gia của Đảng đã chuyển từ mô hình quản lý theo mệnh lệnh – kiểm soát sang mô hình quản trị dựa trên trách nhiệm giải trình, dữ liệu và kết quả. Đây là một sự phát triển phù hợp với xu hướng quốc tế, khi năng lực giám sát không chỉ gắn với quyền lực kiểm tra mà còn với khả năng học hỏi, phản hồi và đổi mới chính sách. Ngoài ra, còn được thể hiện qua Phụ lục 4 – Đánh giá 5 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030; Phụ lục 5 – Về tổng kết công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIII và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIV; Dự thảo Báo cáo tổng kết 15 năm thi hành Điều lệ Đảng (2011 – 2025) và đề xuất, định hướng bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.
Hình 1. Khung năng lực quản trị quốc gia trong bối cảnh mới được đề xuất trên cơ sở phân tích Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng

2.4. Năng lực huy động và điều phối nguồn lực
Năng lực huy động và điều phối nguồn lực là yếu tố then chốt bảo đảm cho việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển quốc gia. Một nhà nước có năng lực cao không chỉ nằm ở khả năng hoạch định chính sách hay tổ chức thực thi mà còn ở năng lực tập hợp, phân bổ và điều phối hiệu quả các nguồn lực vật chất, con người và tri thức để đạt được lợi ích công11. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng, yêu cầu huy động và quản lý nguồn lực hiệu quả càng trở nên cấp thiết, nhằm tạo nền tảng cho phát triển nhanh, bền vững và bao trùm. Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng cho thấy, nhận thức sâu sắc về vai trò chiến lược của năng lực huy động và điều phối nguồn lực, thể hiện tư duy quản trị đa trung tâm, trong đó Nhà nước đóng vai trò kiến tạo và điều phối, còn thị trường, doanh nghiệp, cộng đồng và người dân trở thành các chủ thể đồng hành trong phát triển. Từ góc nhìn quản trị công, năng lực huy động và điều phối nguồn lực được thể hiện qua năng lực huy động nguồn lực tài chính, thể hiện rõ chủ trương hoàn thiện thể chế tài chính quốc gia, phát triển đồng bộ các loại thị trường. Dự thảo cũng định vị con người là trung tâm, chủ thể và mục tiêu của phát triển trong mô hình phát triển mới gắn với chuyển đổi số, kinh tế tri thức và công nghiệp hóa. Chỉ ra vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội trong giám sát và phản biện xã hội có tác động mạnh đến tính hiệu quả và tính chính danh của quản trị quốc gia. Việt Nam được định hướng chủ động tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học – công nghệ, chuyển đổi năng lượng, thích ứng biến đổi khí hậu và quốc phòng – an ninh. Việc kết hợp hài hòa giữa nội lực và ngoại lực phản ánh năng lực điều phối đa tầng của Nhà nước, vừa bảo đảm chủ quyền quốc gia, vừa tận dụng tối đa cơ hội từ hợp tác quốc tế.
3. Một số khuyến nghị
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng thể hiện bước tiến rõ rệt trong tư duy quản trị quốc gia, phản ánh sự đổi mới sâu sắc về tầm nhìn, phương thức lãnh đạo và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số và phát triển bền vững. Từ kết quả phân tích, nhận diện, nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao năng lực quản trị quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn 2026 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và khung pháp lý cho quản trị quốc gia hiện đại. Quản trị quốc gia trong kỷ nguyên số đòi hỏi một hệ thống thể chế mang tính tích hợp, ổn định nhưng linh hoạt, có khả năng phản ứng nhanh với biến động kinh tế – xã hội và môi trường quốc tế. Cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và luật hóa các cơ chế về phân cấp, phân quyền, đi đôi với cơ chế kiểm soát quyền lực, minh bạch hóa trách nhiệm giải trình và tăng cường tính độc lập tương đối trong thực thi công vụ. Việc hoàn thiện thể chế phải hướng tới mục tiêu hình thành một khung pháp lý thống nhất, đồng bộ, giảm thiểu chồng chéo, tạo nền tảng pháp lý cho nền hành chính số, chính phủ số và nền kinh tế số phát triển bền vững.
Thứ hai, nâng cao năng lực dự báo và hoạch định chính sách dựa trên dữ liệu. Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện, việc ra quyết định và hoạch định chính sách không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm hay cảm tính mà phải dựa trên bằng chứng và dữ liệu. Do đó, cần xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia thống nhất, có khả năng liên thông giữa các bộ, ngành và địa phương. Cùng với đó, cần đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), phân tích dữ liệu lớn (Big Data) và các mô hình mô phỏng chính sách nhằm nâng cao năng lực dự báo, đánh giá tác động và kiểm định hiệu quả chính sách. Điều này không chỉ giúp tối ưu hóa nguồn lực mà còn góp phần hình thành văn hóa quản trị dựa trên bằng chứng, hướng tới hiệu quả và tính bền vững.
Thứ ba, đổi mới cơ chế phối hợp liên ngành và nâng cao hiệu quả thực thi chính sách. Một trong những thách thức lớn hiện nay của quản trị quốc gia là tình trạng phân mảnh trong điều hành và chồng chéo trong thực thi chính sách giữa các bộ, ngành và cấp chính quyền. Cần thiết lập cơ chế điều phối chính sách theo vùng, theo lĩnh vực và theo mục tiêu liên ngành, bảo đảm sự nhất quán giữa trung ương và địa phương, giữa khu vực công và tư. Việc hình thành các hội đồng điều phối vùng hoặc tổ công tác liên ngành với quyền hạn rõ ràng sẽ giúp tăng tính đồng bộ, giảm chi phí phối hợp và nâng cao năng suất quản trị trong thực tế. Việc huy động, phân bổ và giám sát nguồn lực phải dựa trên nguyên tắc công khai, minh bạch và hiệu quả đầu ra. Nhà nước cần phát huy vai trò dẫn dắt trong điều phối các nguồn lực xã hội, đồng thời khuyến khích hợp tác công – tư, thu hút vốn đầu tư tư nhân và quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển hạ tầng, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi xanh. Cùng với đó, phải bảo đảm kỷ luật tài khóa, cân đối ngân sách, kiểm soát nợ công, đồng thời xây dựng các công cụ giám sát độc lập đối với hiệu quả sử dụng ngân sách và nguồn vốn đầu tư công.
Nhìn chung, các dự thảo văn kiện của Đảng đã thể hiện tư duy quản trị quốc gia ở tầm cao mới, với tầm nhìn chiến lược và tính thích ứng mạnh mẽ. Việc hiện thực hóa các định hướng nêu trong các dự thảo văn kiện đòi hỏi phải chuyển hóa các giá trị lý luận thành thể chế vận hành cụ thể, lấy hiệu quả, minh bạch và trách nhiệm giải trình làm thước đo. Đây là con đường tất yếu để xây dựng một nền quản trị quốc gia hiện đại, dân chủ, chuyên nghiệp và phục vụ, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc vào giữa thế kỷ XXI.
Chú thích:
1, 6. World Bank (2017). Worldwide Governance Indicators 2017. Washington, D.C.
2, 5. United Nations Development Programme (UNDP) (2019). Human Development Report 2019: Beyond income, beyond averages, beyond today. United Nations.
3, 4, 8, 9, 10. OECD (2021). Government at a Glance 2021. OECD Publishing.
11, 7. Fukuyama, F (2013). What is Governance?. Governance, 26(3), 347 – 368.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 thông qua Đề án sáp nhập tỉnh.
2. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
5. Trần Ngọc Đường (2018). Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện mới. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
6. Nguyễn Hữu Hải (2020). Quản trị công hiện đại: Lý luận và thực tiễn tại Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
7. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 02/02/2024 phê duyệt Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030.



