Tư duy và thực tiễn lãnh đạo của Đảng trong công tác tôn giáo giai đoạn 2016 – 2025

Nguyễn Đức Đỉnh
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Giai đoạn 2016 – 2025 đánh dấu bước phát triển toàn diện trong công tác tôn giáo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ Nghị quyết Đại hội XII đến Đại hội XIII, Đảng đề ra chủ trương và luôn khẳng định tôn giáo là “nguồn lực xã hội”, trong đó, xác định “đoàn kết tôn giáo” là bộ phận cốt lõi của đại đoàn kết toàn dân tộc. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 cùng với các chính sách phát triển kinh tế – xã hội đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng và môi trường ổn định giúp đa số chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo” và đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Từ khoá: Đảng Cộng sản Việt Nam; tư duy lãnh đạo; công tác tôn giáo; giai đoạn 2016 – 2025.

1. Đặt vấn đề

Việt Nam là một quốc gia đa dạng về tín ngưỡng, tôn giáo với khoảng 27% dân số là tín đồ các tôn giáo1. Công tác tôn giáo luôn giữ vị trí chiến lược, là một bộ phận hữu cơ của công tác dân vận và đại đoàn kết toàn dân tộc. Giai đoạn 2016 – 2025, dưới tác động của toàn cầu hóa, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các thách thức an ninh phi truyền thống cùng những âm mưu “chính trị hóa tôn giáo” từ các thế lực thù địch, đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải có sự đổi mới mạnh mẽ. Việc nghiên cứu, hệ thống hóa và đánh giá quá trình Đảng lãnh đạo công tác tôn giáo trong giai đoạn này, từ chủ trương, chính sách đến kết quả và kinh nghiệm thực tiễn có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước

Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tôn giáo trong giai đoạn 2016 – 2025 được thể hiện qua một quá trình thống nhất, xuyên suốt, từ các quan điểm, chủ trương lớn tại các kỳ Đại hội, được cụ thể hóa bằng các văn bản pháp luật và sự chỉ đạo thường xuyên, liên tục của Bộ Chính trị. Giai đoạn này chứng kiến sự phát triển đột phá trong nhận thức của Đảng, chuyển đổi từ việc chỉ xem xét tôn giáo dưới góc độ chính sách xã hội sang việc thừa nhận và phát huy “nguồn lực xã hội” của tôn giáo.

Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng”2; đồng thời: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáophát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”3

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đưa nội dung tôn giáo lên một tầm cao mới, lần đầu tiên đề cập trực tiếp đến các nội dung về tôn giáo một cách toàn diện và sâu sắc. Theo đó: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước”4. Mặt khác, “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”5.

Để thể chế hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, có hiệu lực từ 01/01/2018. Đây là văn bản pháp lý quan trọng, tạo hành lang pháp lý minh bạch, rõ ràng, bảo đảm quyền tự do tôn giáo của mọi người theo đúng Hiến pháp và luật pháp quốc tế. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 mở rộng chủ thể thụ hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho cá nhân, rút ngắn thời gian để một tổ chức được công nhận là tổ chức tôn giáo từ 23 năm giảm xuống còn 5 năm và công nhận tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân phi thương mại. 

Tiếp theo đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo (được thay thế bằng Nghị định số 95/2023/NĐ-CP ngày 29/12/2023). Khi thực hiện tinh gọn bộ máy, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 124/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 quy định về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương hai cấp trong lĩnh vực công tác dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo nhằm bảo đảm công tác tôn giáo tiến hành thiết thực hiệu quả.

3. Những kết quả đạt được

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và việc triển khai đồng bộ các chính sách, công tác tôn giáoở Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng.

Thứ nhất, tình hình tôn giáo trên cả nước cơ bản ổn định, đa số chức sắc, chức việc và đồng bào các tôn giáo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có đoàn kết lương – giáo tiếp tục được củng cố và tăng cường. Đến nay, cả nước có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo đa dạng và sôi nổi với hơn 95% dân số theo tín ngưỡng, 43 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo được công nhận và cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động với trên 27,7 triệu tín đồ6.

Thứ hai, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Mọi nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, hoạt động đào tạo chức sắc, in ấn kinh sách, trùng tu và xây mới cơ sở thờ tự của các tổ chức tôn giáo hợp pháp đều được Nhà nước quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi theo đúng quy định của pháp luật. Các lễ hội lớn của tôn giáo, như Đại lễ Phật Đản Vesak, lễ khai mạc Năm Thánh, lễ hội La Vang được tổ chức trang trọng, thu hút đông đảo tín đồ trong và ngoài nước tham dự, phản ánh sự bảo đảm trên thực tế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Thứ ba, phát huy nguồn lực tôn giáo cho phát triển đất nước. Các tổ chức tôn giáo đã tích cực tham gia vào các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, an sinh xã hội, hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”. Các tôn giáo tham gia tích cực vào lĩnh vực giáo dục, y tế. Hoạt động từ thiện, nhân đạo được đẩy mạnh với phương châm “nhập thế”, các tôn giáo đóng góp thiết thực cho các hoạt động xây nhà tình thương, xây cầu đường, bếp ăn từ thiện, hỗ trợ thiên tai, dịch bệnh.

Thứ tư, chức sắc tôn giáo tham gia vào hệ thống chính trị. Số lượng chức sắc, tín đồ tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước là đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và Mặt trận Tổ quốc các cấp ngày càng tăng, phát huy vai trò tích cực trong công tác vận động quần chúng. Bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo từ Trung ương đến địa phương được củng cố, kiện toàn, đặc biệt là sự ra đời của Bộ Dân tộc và Tôn giáo. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo cũng được đẩy mạnh.

Thứ năm, đấu tranh có hiệu quả với âm mưu lợi dụng tôn giáo. Cơ quan chức năng đã chủ động phòng ngừa, kịp thời đấu tranh và xử lý nghiêm minh các đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước, gây rối trật tự, an toàn xã hội, đặc biệt là các luận điệu xuyên tạc tình hình tôn giáo, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam trên trường quốc tế. Tình hình tôn giáo vẫn giữ được sự ổn định, không để phát sinh các “điểm nóng” phức tạp.

4. Một số kinh nghiệm rút ra

Một là, quán triệt sâu sắc quan điểm “tôn giáo là nguồn lực xã hội” và “đoàn kết tôn giáo là bộ phận cốt lõi của đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Theo đó, đòi hỏi phải có sự đổi mới căn bản về nhận thức trong toàn hệ thống chính trị. Việc chuyển từ tư duy “quản lý để ổn định” sang “quản lý để phát huy nguồn lực” đã tạo ra sinh khí mới trong công tác tôn giáo. Đảng, Nhà nước ta đã thể chế hóa sự thay đổi này, thừa nhận các giá trị văn hóa, đạo đức, và nguồn lực vật chất của tôn giáo là một bộ phận không thể thiếu trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự quán triệt này giúp các cấp ủy, chính quyền tránh được hai khuynh hướng sai lầm: cực đoan, kỳ thị, xem nhẹ tôn giáo; hoặc hữu khuynh, buông lỏng quản lý. Thay vào đó, Đảng đã nhất quán coi đồng bào có đạo là bộ phận máu thịt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy mục tiêu chung là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng để quy tụ, từ đó phát huy tinh thần sống “tốt đời, đẹp đạo” của chức sắc và tín đồ tôn giáo.

Hai là, hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo.

Công tác tôn giáo cần phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật. Sự ra đời của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và các văn bản hướng dẫn là bước tiến quan trọng, tạo hành lang pháp lý minh bạch, rõ ràng, bảo đảm quyền tự do tôn giáo của mọi người theo đúng Hiến pháp và luật pháp quốc tế. Kinh nghiệm này cho thấy, một mặt, việc xây dựng và hoàn thiện luật pháp phải đi trước một bước để thể chế hóa quan điểm của Đảng và giải quyết các vấn đề phức tạp từ thực tiễn. Mặt khác, phải tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước thông qua việc củng cố bộ máy, đào tạo cán bộ chuyên trách thực hiện phân cấp quản lý. Việc chuyển đổi cơ chế quản lý từ kiểm soát sang giám sát và hướng dẫn đã giúp các tổ chức tôn giáo chủ động hơn trong hoạt động.

Ba là, chú trọng công tác vận động quần chúng, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở và đội ngũ cốt cán trong tôn giáo.

Thực chất công tác tôn giáo có mối quan hệ chặt chẽ với công tác vận động quần chúng. Do đó, cần phải xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, đặc biệt là cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền vững mạnh tại các vùng có đông đồng bào tôn giáo. Cấp ủy phải giữ vai trò lãnh đạo, đi sâu, đi sát, lắng nghe và giải quyết kịp thời các nguyện vọng chính đáng của Nhân dân và tín đồ. Việc phát triển đảng viên là người có đạo và xây dựng, phát huy hiệu quả vai trò của lực lượng cốt cán trong tôn giáo là giải pháp then chốt để củng cố “thế trận lòng dân”. Công tác vận động quần chúng được đổi mới thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước.

Bốn là, gắn công tác tôn giáo với phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có đạo.

Kinh nghiệm này dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,  tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn gốc sâu xa của sự ra đời tôn giáo nảy sinh từ những khó khăn, bất cập trong xã hội. Do đó, muốn giải quyết vấn đề tôn giáo một cách bền vững, phải thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế – xã hội. Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đầu tư nguồn lực, thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa cho đồng bào các vùng tôn giáo, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Khi đời sống vật chất được cải thiện, nhu cầu tinh thần chính đáng được đáp ứng, niềm tin của quần chúng, của đồng bào có đạo vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ sẽ được củng cố vững chắc.

Năm là, tăng cường công tác đối ngoại tôn giáo và chủ động đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm “chính trị hóa tôn giáo” ở Việt Nam, công tác đối ngoại tôn giáo và đấu tranh tư tưởng đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Điều này, đòi hỏi sự chủ động trong việc tham gia các diễn đàn quốc tế nhằm giúp cộng đồng quốc tế hiểu rõ tình hình thực tiễn, quan điểm, chủ trương nhất quán và thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, phải kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo để chống phá chế độ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

4. Kết luận

Giai đoạn 2016 – 2025 là một dấu mốc quan trọng, khẳng định sự trưởng thành và phát triển về tư duy lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác tôn giáo. Từ việc thể chế hóa quan điểm thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đến việc nâng tầm nhận thức “tôn giáo là nguồn lực xã hội”, Đảng đã tạo ra một môi trường pháp lý và xã hội thuận lợi, giúp các tôn giáo ổn định, phát triển lành mạnh. Những kinh nghiệm rút ra, Đảng, Nhà nước sẽ tiếp tục kiên định, sáng tạo trong việc phát huy tối đa các nguồn lực tôn giáo, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

Chú thích:

1, 6. Công bố Sách trắng về các tôn giáo ở Việt Nam. https://tuoitre.vn/cong-bo-sach-trang-ve-cac-ton-giao-o-viet-nam-20230309124756105.htm

2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 128, 165.

4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIITập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 50 – 51, 171.

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2017). Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016.

2. Chính phủ (2023). Nghị định số 95/2023/NĐ-CP ngày 29/12/2023 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.

3. Chính phủ (2025). Nghị định số 124/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 quy định về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 2 cấp trong lĩnh vực công tác dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018). Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương( khóa IX) về công tác tôn giáo trong tình hình mới.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIITập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

7. Quốc hội (2016). Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.

8. Một số kinh nghiệm Đảng lãnh đạo chế độ công vụ, công chức và sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/10/30/mot-so-kinh-nghiem-dang-lanh-dao-che-do-cong-vu-cong-chuc-va-su-van-dung-trong-giai-doan-hien-nay/