Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức quân đội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

TS. Lã Văn Xự
TS. Nguyễn Tú Anh
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Một trong những nội dung, biện pháp chủ yếu góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay là phát huy vai trò của đội ngũ trí thức quân đội. Bài viết tập trung làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đề xuất một số nội dung, biện pháp chủ yếu phát huy vai trò của đội ngũ trí thức quân đội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Từ khóa: Quân đội, trí thức quân đội, đội ngũ trí thức quân đội, bảo vệ Tổ quốc.

1. Đặt vấn đề

Trí thức quân đội là một bộ phận của đội ngũ trí thức Việt Nam là những người hoạt động trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng có trình độ học vấn cao (đại học, sau đại học); có chuyên môn sâu, năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; giàu lòng yêu nước, có đạo đức và lý tưởng cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; là nguồn lực đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung, trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại nói riêng. Trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức quân đội là vấn đề quan trọng và cấp thiết.

2. Vai trò của đội ngũ trí thức quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng định: đội ngũ trí thức trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh là lực lượng nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Là một bộ phận của đội ngũ trí thức Việt Nam, trí thức quân đội là những người hoạt động trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng có trình độ học vấn cao (đại học, sau đại học); có chuyên môn sâu, năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, giàu lòng yêu nước, có đạo đức và lý tưởng cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân; là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Theo Người, “Lực lượng chủ chốt của cách mạng là công nhân và nông dân… Nhưng cách mạng cũng cần có lực lượng của trí thức1. Người khẳng định, để giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, ngoài vai trò của công nhân, nông dân thì đội ngũ trí thức có vị trí hết sức quan trọng; sự liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức tạo thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn căn dặn: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”2. Đặc biệt, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Người đã chỉ ra rằng, trong lúc này “lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong công cuộc hoàn thành dân chủ mới để tiến đến chủ nghĩa xã hội”3; trí thức phải có trách nhiệm đối với việc “Khai dân trí, chấn dân khí”. Đồng thời, Người khẳng định: “Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều”4. Bởi, “đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”5.

Thực tế cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đến nay, đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung, đội ngũ trí thức trong Quân đội nói riêng luôn là một trong những lực lượng đặc biệt quan trọng của sự nghiệp cách mạng của Đảng; là lực lượng xung kích đi đầu trên mặt trận khoa học, công nghệ và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng, phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; là nhân tố quyết định đến sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay.

3. Thực trạng đội ngũ trí thức quân đội và vai trò của đội ngũ trí thức quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời gian qua

Những năm qua, thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, nhất là Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 93/NQ-ĐUQSTW (nay là Quân ủy Trung ương) về tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật và xây dựng nhà trường chính quy; Nghị quyết số 86/NQ-ĐUQSTW về công tác giáo dục và đào tạo trong tình hình mới; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII) về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, “nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và xã hội về vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức ngày càng đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn…

Đội ngũ trí thức Việt Nam có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng; là lực lượng đi đầu trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học – công nghệ, hội nhập quốc tế”6. Số lượng trí thức trong Quân đội được đào tạo, bồi dưỡng và phát triển phù hợp với xu thế của thời đại và yêu cầu nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ trong Quân đội. Trí thức có trình độ cao, như: giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa II tăng lên 72% so với năm 2008, trong đó trí thức có trình độ thạc sĩ tăng lên 168%7.

Thực tiễn, đội ngũ trí thức quân đội luôn là lực lượng nòng cốt tham gia xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và bắt kịp trình độ các nước tiên tiến trên thế giới trong một số lĩnh vực; đã tập trung nghiên cứu dự báo những vấn đề khoa học mới phát sinh từ thực tiễn, cung cấp những luận cứ khoa học về chủ trương, đường lối, chính sách về Chiến lược quốc phòng Việt Nam, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia và Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia8.

Đặc biệt, trong khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự, đội ngũ trí thức quân đội đã tập trung nghiên cứu, thiết kế chế tạo, cải tiến hiện đại hoá các loại vũ khí, khí tài, nâng cao uy lực, độ chính xác, khả năng cơ động, phù hợp với điều kiện môi trường và địa bàn tác chiến đặc thù9; nghiên cứu, dự báo về đối tượng tác chiến, các hình thái chiến tranh, âm mưu, thủ đoạn, cách đánh của địch; nghệ thuật, đối sách, phương án tác chiến; tổng kết, bổ sung, hoàn thiện lý luận về nghệ thuật quân sự, về tổ chức, bố trí, xây dựng khu vực phòng thủ, căn cứ hậu cần chiến lược. Qua đó, đã góp phần tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực quốc phòng, an ninh và hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, phát triển, ứng dụng tri thức quân sự, quốc phòng hiện đại vào thực tiễn; trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, làm cơ sở đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức còn bất cập, hạn chế10; vẫn còn thiếu cơ chế, chính sách đột phá trong đầu tư, huy động nguồn lực, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng, tôn vinh trí thức, nhất là bộ phận trí thức tinh hoa, các nhà khoa học, nhà văn hóa lớn…; chưa tạo được môi trường thuận lợi động viên trí thức chủ động nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, truyền thụ kiến thức, tư vấn, phản biện xã hội11; đội ngũ trí thức quân đội còn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh, nhất là yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Một bộ phận trí thức quân đội trình độ giao tiếp bằng ngoại ngữ, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, kiến thức thực tiễn vào thực hiện chức trách, nhiệm vụ còn hạn chế; việc tự học, tự nghiên cứu và nêu gương của một số cán bộ, đảng viên chưa tốt12.

Những tồn tại, hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan. Song, nguyên nhân một phần là do nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức chưa đầy đủ, sâu sắc; việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa đồng bộ, hiệu quả; chậm khắc phục hạn chế, bất cập trong cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí thức13. Bên cạnh đó, một số chủ trương, chính sách, chế độ đãi ngộ đối với trí thức nói chung và trí thức quân đội nói riêng chậm đổi mới, chưa đi vào thực tiễn cuộc sống; có nơi thực hiện chưa đúng, chưa thực sự quan tâm đến công tác thu hút, trọng dụng, phát huy vai trò của bộ phận này. Một bộ phận trí thức chưa nhận thức đầy đủ vai trò đối với phát triển đất nước, còn thụ động, trông chờ, ngại bày tỏ chính kiến; năng lực, phẩm chất, uy tín chưa đáp ứng yêu cầu”14

4. Một số nội dung, biện pháp chủ yếu phát huy vai trò của đội ngũ trí thức quân đội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Quân đội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức.

Cần làm tốt công tác giáo dục, quán triệt, đổi mới mạnh mẽ tư duy, nâng cao nhận thức cho các tổ chức, các lực lượng, trước hết là cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Quân đội và đội ngũ cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức cũng như việc xây dựng đội ngũ trí thức trong Quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác giáo dục, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức trong giai đoạn mới, nhất là quan điểm Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhằm xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới15; Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII) về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới; Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia cùng các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

Thường xuyên đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tăng cường sự đồng thuận của đội ngũ trí thức quân đội đối với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, với tinh thần trong bất luận hoàn cảnh nào, Quân đội cũng phải luôn giữ vững định hướng chính trị, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và Nhân dân, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao16. Đề cao vinh dự, trách nhiệm, đạo đức, tinh thần đoàn kết, cống hiến của đội ngũ trí thức đối với đơn vị, quân đội, Tổ quốc và dân tộc.

Hai là, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, trọng dụng nhân tài trong Quân đội.

Đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tập trung đổi mới toàn diện, đồng bộ, nâng cao chất lượng công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo hướng cơ bản, hệ thống, chuyên sâu; có kế hoạch cụ thể, bài bản, mang tính chiến lược nhằm tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, nhất là trong các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu… của Quân đội nhằm từng bước xây dựng được một đội ngũ cán bộ, nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành có uy tín, chất lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội, nhất là yêu cầu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới để xác định những lĩnh vực, hướng nghiên cứu trọng tâm, trọng điểm; kết hợp đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Tập trung xây dựng cơ chế, chính sách đột phá và đầu tư nguồn lực để phát triển một số học viện, nhà trường, viện nghiên cứu… trong Quân đội trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học hàng đầu của Quân đội và quốc gia.

Tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách nhằm phát hiện, thu hút, phát triển, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài làm việc trong Quân đội, nhất là chính sách ưu tiên trong tuyển chọn, tuyển dụng, điều động, bổ nhiệm, thăng quân hàm, nâng lương, bảo đảm về tiền lương, phụ cấp, nhà ở; “có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học”17. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ trí thức quân đội phát huy tốt nhất năng lực nghiên cứu, sáng tạo, giảng dạy, sự cống hiến, tâm huyết, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ… nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Thực sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức18.

Nghiên cứu đổi mới các tiêu chí, tiêu chuẩn, nâng cao hiệu quả việc đánh giá, công nhận các chức danh khoa học; rà soát, hoàn thiện hệ thống các giải thưởng trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và các chính sách tôn vinh đối với đội ngũ trí thức quân đội.

Ba là, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với đội ngũ trí thức quân đội và hoạt động khoa học, công nghệ trong Quân đội.

Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy chế, quy định, nhất là các cơ chế, chính sách đặc thù, phù hợp với hoạt động của đội ngũ trí thức trong Quân đội. Đổi mới công tác quản lý hoạt động khoa học, công nghệ, góp phần từng bước nâng cao năng lực dự báo, tham mưu chiến lược về quân sự, quốc phòng19 cho Đảng, Nhà nước. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (khi Nhà nước ban hành) gắn với yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình thực tế của Quân đội.

Quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng trong Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia về bố trí phù hợp số lượng cán bộ có trình độ chuyên môn khoa học kỹ thuật trong cấp uỷ các cấp. Phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số20.

Hoàn thiện việc xây dựng cơ sở dữ liệu, kết hợp đề cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quản lý nhà nước nhằm quản lý chặt chẽ, hiệu quả số lượng, chất lượng đội ngũ trí thức và hoạt động khoa học, công nghệ trong Quân đội. Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền, uỷ quyền theo hướng tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị, các tổ chức khoa học và công nghệ các cấp, nhất là các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu trong Quân đội đối với việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo và các chức danh khoa học. Nghiên cứu, sửa đổi tuổi lao động phù hợp với hoạt động, tính chất của đội ngũ trí thức quân đội nhằm tận dụng tri thức, kinh nghiệm của đội ngũ trí thức, tránh để lãng phí nguồn nhân lực chất lượng cao.

Thường xuyên tiến hành sơ kết, tổng kết hoạt động giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, từ đó, kịp thời biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân đạt thành tích cao; đồng thời, rút kinh nghiệm những tồn tại, hạn chế và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm quy định, thiếu trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ trí thức quân đội.

Bốn là, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức quân đội.

Trên cơ sở nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình, đội ngũ trí thức quân đội phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, luôn tích cực, chủ động, tự giác, đa dạng hóa các hình thức tự học tập, tự nghiên cứu; không ngừng tích lũy kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác, luôn phấn đấu để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình an ninh, chính trị trên thế giới, khu vực diễn biến hết sức phức tạp, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng nặng nề, đòi hỏi đội ngũ trí thức quân đội phải thường xuyên phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vai trò, trách nhiệm hơn nữa, mạnh dạn đổi mới tư duy, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung; gắn công tác nghiên cứu, giảng dạy với hoạt động thực tiễn. Tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong công tác, bản lĩnh khoa học; chủ động tìm tòi, phát hiện, đề xuất nghiên cứu những vấn đề mới, đột phá vào các lĩnh vực mũi nhọn, trọng tâm, trọng điểm sát tình hình thực tiễn nhiệm vụ xây dựng quân đội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

5. Kết luận

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp đồng bộ; cần phải xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Trong đó, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức quân đội là một trong những nội dung, biện pháp đặc biệt quan trọng, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 376.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 3.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 72.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 275.
5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 617.
6, 10, 11, 13, 14. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2023). Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.
7. Ban Tuyên giáo Trung ương (2023). Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 322.
8, 9. Ban Tuyên giáo Trung ương (2023). Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 328.
12, 16, 19. Quân ủy Trung ương (2020). Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội nhiệm kỳ 2020 – 2025, Hà Nội, tr. 3, 3, 4.
15, 17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 167, 167, 167.
20. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.