Phan Ngọc Yến
Trường Chính trị thành phố Cần Thơ
(Quanlynhanuoc.vn) – Công tác giảm nghèo luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của thành phố Cần Thơ. Những năm qua, nhiều chương trình, chính sách giảm nghèo đã được triển khai đồng bộ, góp phần cải thiện đời sống người dân, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các khu vực. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn tồn tại không ít khó khăn, như: tỷ lệ tái nghèo, nguy cơ nghèo phát sinh hay việc tiếp cận nguồn lực hỗ trợ còn hạn chế. Bài viết làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả các chương trình giảm nghèo tại thành phố Cần Thơ hiện nay.
Từ khóa: Hiệu quả; chương trình giảm nghèo; thành phố Cần Thơ.
1. Đặt vấn đề
Những năm qua, công tác giảm nghèo tại thành phố Cần Thơ đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần cải thiện đời sống của Nhân dân, đặc biệt là các hộ nghèo và cận nghèo. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển kinh tế – xã hội hiện nay, tình trạng tái nghèo, nghèo phát sinh và khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư vẫn còn tồn tại, đặt ra nhiều thách thức mới. Các chương trình giảm nghèo ở thành phố Cần Thơ không chỉ hướng đến việc hỗ trợ trực tiếp mà còn tập trung nâng cao năng lực, tạo sinh kế bền vững cho người dân. Song, việc triển khai trên thực tế vẫn gặp những hạn chế, khó khăn,như: nguồn lực phân bổ chưa đồng đều, hiệu quả một số dự án còn thấp, công tác giám sát và phối hợp chưa thực sự chặt chẽ. Vì vậy, việc nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các chương trình giảm nghèo là yêu cầu cấp thiết, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội và xây dựng thành phố Cần Thơ ngày càng giàu đẹp, văn minh.
2. Vai trò của các chương trình giảm nghèo đối với sự phát triển bền vững tại thành phố Cần Thơ
Hiện nay, thành phố Cần Thơ được sáp nhập từ 3 đơn vị hành chính (gồm thành phố Cần Thơ cũ, tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Hậu Giang), tổng dân số thành phố là 3,2 triệu người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số khoảng 494 nghìn người, chiếm hơn 15% dân số1. Việc sáp nhập các đơn vị hành chính được kỳ vọng sẽ tạo ra “nhân tố mới, động lực mới, mang tính đột phát mới cho thành phố Cần Thơ bước vào giai đoạn phát triển mới – mang sứ mệnh đầu tàu cho vùng đồng bằng sông Cửu Long”2.
Trong quá trình phát triển của đất nước nói chung và thành phố Cần Thơ nói riêng, công tác giảm nghèo luôn được xem là một nhiệm vụ trọng tâm, góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển bền vững. Thực tiễn tại thành phố Cần Thơ cho thấy, công tác giảm nghèo không chỉ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà còn là một trong những trụ cột góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy tăng trưởng toàn diện và nâng cao chất lượng đời sống cho Nhân dân.
Thứ nhất, giảm nghèo góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các khu vực, bảo đảm công bằng xã hội. Việc triển khai hiệu quả các chương trình giảm nghèo sẽ giúp người dân có điều kiện tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ y tế, giáo dục, việc làm, nhà ở và an sinh xã hội. Qua đó, tạo động lực để người nghèo chủ động vươn lên thoát nghèo bền vững, góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đúng định hướng của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, các chương trình giảm nghèo đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội toàn diện của thành phố. Thực tiễn cho thấy, khi tỷ lệ hộ nghèo giảm, nguồn nhân lực lao động được cải thiện về chất và lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất – kinh doanh và thu hút đầu tư. Giảm nghèo giúp mở rộng thị trường nội địa, tăng sức mua và góp phần kích cầu tiêu dùng xã hội. Đồng thời, thông qua việc hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề và tạo việc làm, thành phố Cần Thơ đã hình thành được lực lượng lao động có tay nghề, đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp công nghệ cao. Do đó, công tác giảm nghèo không chỉ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững của thành phố.
Thứ ba, các chương trình giảm nghèo còn góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và giữ vững ổn định chính trị – xã hội trên địa bàn. Khi người dân có cuộc sống ổn định, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của chính quyền được củng cố, từ đó, tạo nên sự đồng thuận xã hội cao trong thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển. Bên cạnh đó, giảm nghèo hiệu quả còn giúp hạn chế các tệ nạn xã hội, giảm áp lực về an sinh, góp phần xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh. Trong bối cảnh thành phố đang hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, văn minh, hiện đại, công tác giảm nghèo càng thể hiện rõ tầm quan trọng, là nền tảng vững chắc để phát huy nội lực, bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả của quá trình phát triển.
3. Thực trạng về các chương trình giảm nghèo tại thành phố Cần Thơ
Trong những năm qua, công tác giảm nghèo luôn được thành phố Cần Thơ xác định là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao đời sống Nhân dân. Nhờ sự quan tâm lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, cùng với sự đồng thuận của người dân, các chương trình giảm nghèo trên địa bàn thành phố đã đạt được nhiều kết quả tích cực, thể hiện trên một số phương diện bản sau:
Một là, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh và bền vững, đời sống người dân ngày càng được cải thiện. Thành phố Cần Thơ đã triển khai đồng bộ các chính sách hỗ trợ, từ tín dụng ưu đãi, đào tạo nghề, tạo việc làm đến hỗ trợ sinh kế, nhà ở và y tế cho hộ nghèo. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo của thành phố giảm liên tục qua từng năm. Theo thống kê sơ bộ, hiện tỷ lệ hộ nghèo toàn thành phố là 0,85%3; phấn đấu đến cuối năm 2025, giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn thành phố còn 0,63%4. Thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo tăng rõ rệt, nhiều hộ đã tự vươn lên thoát nghèo bền vững. Kết quả này phản ánh sự đúng đắn của chính sách và nỗ lực của toàn hệ thống chính trị trong công tác an sinh xã hội.
Hai là, các chương trình, dự án giảm nghèo được triển khai toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Thành phố tập trung đầu tư vào các lĩnh vực có tác động trực tiếp đến đời sống người nghèo, như: phát triển nông nghiệp công nghệ cao, hạ tầng nông thôn, giáo dục và y tế. Các mô hình sinh kế bền vững,như: “tổ hợp tác chăn nuôi bò sinh sản”, “mô hình trồng rau an toàn” hay “hỗ trợ vốn khởi nghiệp cho phụ nữ nghèo” được nhân rộng, mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều hộ dân không chỉ thoát nghèo mà còn trở thành hộ khá, góp phần lan tỏa tinh thần tự lực, vươn lên trong cộng đồng.
Ba là, công tác quản lý, giám sát và tuyên truyền về giảm nghèo được tăng cường, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức xã hội. Các địa phương thường xuyên rà soát, cập nhật danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn mới, bảo đảm công khai, minh bạch. Hoạt động tuyên truyền được đẩy mạnh, giúp người dân hiểu rõ chính sách của Nhà nước và tích cực tham gia các chương trình hỗ trợ. Sự vào cuộc của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội đã góp phần củng cố tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng, cùng nhau giúp đỡ hộ nghèo phát triển sản xuất và ổn định cuộc sống.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn cho thấy, các chương trình giảm nghèo tại thành phố Cần Thơ vẫn còn tồn tại một số hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của thành phố.
Thứ nhất, công tác xác định đối tượng và quản lý hộ nghèo, hộ cận nghèo còn bất cập. Ở một số địa phương, việc rà soát, đánh giá hộ nghèo vẫn mang tính hình thức, thiếu chính xác, chưa phản ánh đúng thực trạng đời sống người dân. Một số hộ có điều kiện kinh tế khá giả vẫn nằm trong danh sách hộ nghèo để hưởng lợi từ các chính sách, trong khi nhiều hộ thực sự khó khăn lại bị bỏ sót. Điều này dẫn đến việc phân bổ nguồn lực hỗ trợ chưa đúng đối tượng, làm giảm hiệu quả và tính công bằng trong thực hiện chính sách giảm nghèo. Bên cạnh đó, cơ sở dữ liệu về hộ nghèo chưa được cập nhật thường xuyên, gây khó khăn cho việc theo dõi và đánh giá kết quả giảm nghèo.
Thứ hai, một số chương trình, dự án giảm nghèo còn dàn trải, thiếu tính bền vững. Một số mô hình hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề cho người nghèo chưa phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường lao động và điều kiện sản xuất tại địa phương. Một số chương trình chỉ mang tính hỗ trợ ngắn hạn, chưa tạo được động lực để người dân tự vươn lên thoát nghèo bền vững. Việc lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế – xã hội với mục tiêu giảm nghèo còn hạn chế, dẫn đến tình trạng trùng lặp, chồng chéo trong đầu tư, gây lãng phí nguồn lực. Ngoài ra, sự tham gia của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội trong công tác giảm nghèo còn yếu, chưa hình thành được liên kết “Nhà nước – doanh nghiệp – người dân” trong phát triển sinh kế.
Thứ ba, năng lực quản lý, giám sát và tuyên truyền chính sách giảm nghèo còn hạn chế. Một số cán bộ làm công tác giảm nghèo ở cơ sở chưa được đào tạo chuyên sâu, thiếu kỹ năng quản lý và vận động Nhân dân. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình chưa thường xuyên dẫn đến tình trạng sử dụng nguồn vốn sai mục đích hoặc kém hiệu quả. Đồng thời, việc tuyên truyền, vận động người dân thay đổi tư duy, phát huy nội lực để thoát nghèo chưa được chú trọng đúng mức, khiến một bộ phận người nghèo còn tâm lý trông chờ, ỷ lại vào hỗ trợ của Nhà nước.
4. Một số giải pháp
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giảm nghèo bền vững.
Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện hiệu quả các chương trình giảm nghèo bền vững tại thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay. Trước hết, cần tăng cường tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân, đặc biệt là các hộ nghèo, cận nghèo về ý nghĩa, mục tiêu và phương thức thực hiện giảm nghèo bền vững. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống truyền thanh cơ sở, mạng xã hội và các buổi sinh hoạt cộng đồng, chính quyền các cấp cần phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và thành phố về giảm nghèo, giúp người dân hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong quá trình thoát nghèo. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền các mô hình thoát nghèo tiêu biểu, các gương điển hình tiên tiến để tạo động lực, khích lệ tinh thần tự lực, tự cường của các hộ nghèo, khơi dậy ý chí vươn lên trong cộng đồng dân cư.
Đổi mới nội dung và phương thức tuyên truyền theo hướng thiết thực, phù hợp với từng nhóm đối tượng và điều kiện đặc thù của từng địa phương. Đối với vùng đô thị, chú trọng tuyên truyền thông qua hệ thống báo chí, internet, các nền tảng mạng xã hội, kết hợp các chương trình tư vấn nghề nghiệp, khởi nghiệp, đào tạo kỹ năng lao động. Đối với vùng nông thôn, cần đẩy mạnh tuyên truyền trực tiếp thông qua cán bộ cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng, kết hợp tổ chức các lớp tập huấn, tọa đàm, hội thi tìm hiểu về giảm nghèo bền vững. Ngoài ra, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, đoàn thể trong việc triển khai các hoạt động tuyên truyền gắn với phong trào thi đua yêu nước, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế – xã hội địa phương.
Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành trong thực hiện chương trình giảm nghèo.
Thành phố cần tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về giảm nghèo theo hướng cụ thể, sát thực, có trọng tâm, trọng điểm. Các chính sách hỗ trợ phải hướng đến người nghèo, hộ cận nghèo, nhóm yếu thế, bảo đảm tính công bằng và hiệu quả trong thụ hưởng. Đồng thời,ban hành các chính sách đặc thù, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, hỗ trợ sinh kế, tạo việc làm bền vững, trong đó ưu tiên đầu tư vào vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ chế giám sát, đánh giá kết quả thực hiện, gắn trách nhiệm cụ thể cho từng cấp, từng ngành, tránh tình trạng chồng chéo, hình thức trong quá trình triển khai.
Song song với việc hoàn thiện chính sách, cần tăng cường hơn nữa công tác phối hợp giữa các sở, ban, ngành, đoàn thể và chính quyền các cấp trong triển khai thực hiện các chương trình giảm nghèo. Sự phối hợp phải được thực hiện chặt chẽ, có sự phân công rõ ràng, tránh chồng chéo hoặc bỏ sót đối tượng thụ hưởng. Sở Nội vụ cần đóng vai trò điều phối; đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý dữ liệu hộ nghèo, hộ cận nghèo, bảo đảm tính minh bạch, chính xác và kịp thời. Các cơ quan chuyên môn, như: Sở Nông nghiệp và Môi trường, Sở Công Thương, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế cần phối hợp chặt chẽ trong thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, y tế, giáo dục cho người nghèo. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội cần phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, kịp thời phát hiện những vướng mắc trong thực hiện chính sách để kiến nghị điều chỉnh phù hợp. Chính quyền cơ sở cần nâng cao năng lực quản lý, theo dõi, đánh giá kết quả giảm nghèo, bảo đảm các chính sách đi vào thực chất, đúng đối tượng và mang lại hiệu quả lâu dài.
Ba là, đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân
Thành phố cần tiếp tục phát huy lợi thế của một trung tâm kinh tế – dịch vụ vùng đồng bằng sông Cửu Long, chú trọng phát triển các ngành có tiềm năng tạo việc làm lớn, như: nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến, du lịch sinh thái, thương mại và dịch vụ logistics. Chính quyền địa phương cần quy hoạch, đầu tư hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ, tạo môi trường thuận lợi để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp, từ đó, mở rộng cơ hội việc làm cho lao động nông thôn, đặc biệt là lao động nghèo và cận nghèo. Song song với đó, cần khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, các mô hình sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị gắn với tiêu thụ sản phẩm, giúp người dân ổn định đầu ra và tăng thu nhập.
Bên cạnh phát triển kinh tế, thành phố cần quan tâm hơn đến công tác đào tạo nghề và phát triển thị trường lao động. Các ngành chức năng phải đẩy mạnh chương trình đào tạo nghề ngắn hạn, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường, đặc biệt ưu tiên đào tạo cho lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, lao động nữ và thanh niên nông thôn. Đồng thời, cần tăng cường kết nối giữa các cơ sở đào tạo nghề với doanh nghiệp, hợp tác xã để người học có thể được thực hành và có việc làm ngay sau đào tạo. Thành phố cũng nên phát triển các sàn giao dịch việc làm, trung tâm giới thiệu việc làm, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong tư vấn và kết nối lao động. Ngoài ra, việc khuyến khích khởi nghiệp, phát triển kinh tế hộ gia đình và kinh tế nông thôn gắn với chương trình “mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) sẽ giúp người dân phát huy tiềm năng tại chỗ, tạo thêm nhiều mô hình sinh kế hiệu quả, giảm dần sự phụ thuộc vào hỗ trợ của Nhà nước.
Bốn là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số.
Cần xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu số về hộ nghèo, hộ cận nghèo, bảo đảm tính chính xác, cập nhật thường xuyên và liên thông giữa các cấp, các ngành. Hệ thống dữ liệu này cần được tích hợp với các nền tảng thông tin quản lý của thành phố để thuận lợi trong việc theo dõi biến động, đánh giá kết quả thực hiện và hoạch định chính sách phù hợp. Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ thông tin trong tiếp nhận, xử lý hồ sơ và giải ngân các nguồn hỗ trợ giúp giảm thiểu sai sót, rút ngắn thời gian; đồng thời,tăng tính công khai, minh bạch trong thực hiện các chương trình giảm nghèo. Cùng với đó, cần đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách đến người dân. Thông qua các kênh trực tuyến, mạng xã hội, ứng dụng di động, các thông tin về chủ trương, chính sách, mô hình thoát nghèo bền vững có thể được lan tỏa nhanh chóng, giúp người dân nắm bắt kịp thời và chủ động tham gia. Việc hỗ trợ người dân, đặc biệt là hộ nghèo, cận nghèo tiếp cận các kỹ năng số cơ bản cũng là nội dung quan trọng, giúp họ tận dụng công nghệ để học nghề, kinh doanh, tìm việc làm và kết nối thị trường. Ngoài ra, thành phố cần tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ, tổ chức xã hội trong phát triển các giải pháp số phục vụ công tác giảm nghèo, như: ứng dụng quản lý trợ cấp, hệ thống giám sát kết quả hỗ trợ hay các nền tảng thương mại điện tử giúp tiêu thụ sản phẩm của hộ nghèo…
Năm là, huy động sự tham gia của toàn xã hội trong công tác giảm nghèo.
Chính quyền các cấp cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, giúp mọi tầng lớp nhân dân nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong công tác giảm nghèo. Cần tạo điều kiện để các tổ chức chính trị – xã hội phát huy vai trò nòng cốt trong việc kết nối, huy động nguồn lực, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ sinh kế cho các hộ nghèo và cận nghèo. Thông qua các phong trào, như: “Cả nước chung tay vì người nghèo”, “Ngày vì người nghèo”, các hoạt động từ thiện, hiến tặng sinh kế, nhà ở, học bổng… đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống của người dân khó khăn. Bên cạnh đó, cần khuyến khích khu vực doanh nghiệp và các nhà hảo tâm tích cực tham gia vào công tác giảm nghèo thông qua các chương trình trách nhiệm xã hội, hỗ trợ việc làm, đào tạo nghề và tiêu thụ sản phẩm của người dân vùng khó khăn. Các mô hình liên kết giữa doanh nghiệp với hộ nghèo trong sản xuất, tiêu thụ nông sản, du lịch cộng đồng hay dịch vụ đô thị là hướng đi hiệu quả, vừa giúp doanh nghiệp phát triển bền vững vừa tạo sinh kế ổn định cho người dân. Ngoài ra, chính quyền thành phố cần xây dựng cơ chế khuyến khích, tôn vinh và nhân rộng các cá nhân, tổ chức có đóng góp tích cực trong công tác giảm nghèo; đồng thời tăng cường minh bạch, công khai trong quản lý, sử dụng các nguồn quỹ vì người nghèo để tạo niềm tin, khơi dậy tinh thần tương thân, tương ái trong toàn xã hội.
5. Kết luận
Trong bối cảnh hiện nay, việc nâng cao hiệu quả các chương trình giảm nghèo tại thành phố Cần Thơ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và thúc đẩy phát triển bền vững. Để đạt được mục tiêu đó, thành phố cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về giảm nghèo bền vững; phát triển kinh tế gắn với tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý, giám sát các chương trình giảm nghèo; đồng thời, huy động sự tham gia tích cực của toàn xã hội. Thực hiện đồng bộ, quyết liệt và sáng tạo các giải pháp sẽ giúp thành phố Cần Thơ không chỉ giảm nghèo bền vững mà còn hướng tới mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau”, góp phần xây dựng thành phố phát triển toàn diện, văn minh và hiện đại.
Chú thích:
1. Cần Thơ đạt kết quả ấn tượng trong công tác giảm nghèo bền vững. https://tcnnld.vn/news/detail/69213/Can-Tho-dat-ket-qua-an-tuong-trong-cong-tac-giam-ngheo-ben-vung.html
2. Cần Thơ sau sáp nhập, động lực mới để giảm nghèo nhanh và bền vững hơn. https://vids.mpi.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/can-tho-sau-sat-nhap-dong-luc-moi-de-giam-ngheo-nhanh-va-ben-vung-hon-11480.html
3. Ngày Vì người nghèo 17-10: Chung sức vì mục tiêu giảm nghèo bền vững. https://baocantho.com.vn/ngay-vi-nguoi-ngheo-17-10-chung-suc-vi-muc-tieu-giam-ngheo-ben-vung-a192472.html
4. Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ (2025). Kế hoạch số 77/KH-UBND ngày 17/9/2025 thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn thành phố Cần Thơ năm 2025.
Tài liệu tham khảo:
1. Cần Thơ nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. https://bvhttdl.gov.vn/can-tho-nang-cao-hieu-qua-cong-tac-giam-ngheo-bao-dam-an-sinh-xa-hoi-20251020155821017.htm
2. Cần Thơ phấn đấu đến cuối năm 2025 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 0,63. https://www.cantho.gov.vn/tuyen-truyen-pho-bien-phap-luat/thanh-pho-can-tho-phan-dau-den-cuoi-nam-2025-giam-ty-le-ho-ngheo-toan-thanh-pho-con-0-63-314246



