Đánh giá chính sách đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực ngành May mặc của thành phố Cần Thơ

ThS. Huỳnh Cảnh Thanh Lam
Trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Cần Thơ
TS. Nguyễn Thị Thu An
Trường Đại học Kỹ thuật – Công nghệ Cần Thơ
PGS. TS. Huỳnh Thanh Nhã
Trường Đại học Kỹ thuật – Công nghệ Cần Thơ

(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển nguồn nhân lực là quá trình gia tăng về số lượng, chất lượng và hiệu quả sử dụng lao động trong nền kinh tế. Hiện nay, may mặc là một trong những thế mạnh của ngành Công nghiệp của thành phố Cần Thơ, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số, phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ thì lực lượng lao động của ngành May mặc cần phải đáp ứng về số lượng, kỹ năng, trình độ chuyên môn, khả năng thích nghi với công nghệ và mô hình tổ chức sản xuất mới, hiện đại. Bài viết trên cơ sở phân tích, đánh giá chính sách đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực ngành May mặc tại thành phố Cần Thơ, từ đó, đề xuất một số giải pháp đào tạo lại nhân lực ngành May mặc do đổi mới công nghệ tại thành phố Cần Thơ.

Từ khóa: Đào tạo, đào tạo lại; ngành may mặc; nguồn nhân lực; thành phố Cần Thơ.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, xu thế chuyển dịch sản xuất toàn cầu, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số,… ngành May mặc Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Thành phố Cần Thơ là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục,… của vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi đây tập trung 14 khu, cụm công nghiệp với quy mô khoảng 3.895 ha1 (CJSC, 2024), lực lượng lao động dồi dào và có thể thu hút lao động từ những tỉnh, thành phố lân cận, do đó, thành phố Cần Thơ có tiềm năng lớn trong việc phát triển ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp may mặc nói riêng.

Đối với ngành may mặc, lao động là một trong những yếu tố quyết định đến năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp may mặc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nguồn nhân lực ngành May mặc tại Cần Thơ vẫn còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề và khả năng thích ứng với công nghệ mới. Mặc dù, Nhà nước đã ban hành chính sách để hỗ trợ, thúc đẩy công tác đào tạo nhân lực nói chung (Quyết định số 1446/QĐ-TTg ngày 30/8/2021 về việc phê duyệt chương trình “Đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”) và đào tạo nhân lực ngành May mặc nói riêng (Quyết định số 1643/QĐ-TTg ngày 29/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược phát triển ngành Dệt may và da giầy Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035) nhưng việc triển khai những chính sách này trên địa bàn thành phố còn rất hạn chế; các doanh nghiệp chưa tiếp cận được những chính sách này để đào tạo hay đào tạo lại tay nghề cho người lao động mà chủ yếu các hình thức đào tạo là do doanh nghiệp tự tổ chức đào tạo tại chỗ cho lao động.

Giai đoạn 2021 – 2023 với nhiều thay đổi từ bối cảnh hậu đại dịch Covid-19, sự gia tăng ứng dụng công nghệ vào sản xuất và nhu cầu chuyển đổi mô hình sản xuất theo hướng bền vững, việc đánh giá lại các chính sách đào tạo cũng như chất lượng nguồn nhân lực ngành May mặc tại thành phố Cần Thơ là yêu cầu cấp thiết.

2. Một số khái niệm

(1) Khái niệm đào tạo nghề nghiệp: theo khoản 2 Điều 3 Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014: “Đào tạo nghề nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp”.

Điều 4 cũng xác định “Mục tiêu chung của giáo dục nghề nghiệp là nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện cho người học sau khi hoàn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn”. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 cũng xác định mục tiêu cụ thể đối với từng trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng.

(2) Khái niệm đào tạo lại: “đào tạo lại” hay “tái đào tạo” chưa được pháp luật quy định nhưng có thể hiểu đào tạo lại là quá trình bổ sung thêm kiến thức, kỹ năng liên quan đến nghiệp vụ ở từng vị trí công tác của người lao động. Đào tạo lại giúp người lao động cập nhật được kiến thức, kỹ năng mới, nâng cao chất lượng lao động để đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp trước sự thay đổi của công nghệ.

(3) Phương pháp phân tích.

Dữ liệu chính sử dụng trong nghiên cứu này là dữ liệu thứ cấp liên quan đến những quy định, chính sách đào tạo, đào tạo lại nhân lực may mặc của Việt Nam nói chung và thành phố Cần Thơ nói riêng; đồng thời, còn có những nghiên cứu trước đây liên quan đến chính sách đào tạo cho người lao động trong các doanh nghiệp ngành may mặc.

Nghiên cứu khảo sát nhanh 7 doanh nghiệp may mặc trên địa bàn thành phố Cần Thơ để đánh giá thực trạng đào tạo, đào tạo lại nhân sự của những doanh nghiệp này.

3. Kết quả và thảo luận

3.1. Chính sách đào tạo, đào tạo lại nhân lực ngành may mặc của Việt Nam

Tổng hợp các chính sách đào tạo cho thấy, từ năm 2014 – 2024, Chính phủ đã ban hành các chính sách đào tạo dành cho ngành May mặc, như sau:

Một, chính sách hỗ trợ tài chính trực tiếp cho đào tạo: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 288/QĐ-TTg ngày 26/02/2014 về việc hỗ trợ kinh phí đào tạo nguồn nhân lực dệt may Việt Nam cho Tập đoàn Dệt May Việt Nam. Theo đó, chính sách này đã hỗ trợ 65.569 triệu đồng cho Tập đoàn Dệt May Việt Nam từ nguồn chi sự nghiệp giáo dục và đào tạo thuộc ngân sách trung ương năm 2014 để đào tạo nguồn nhân lực dệt may năm 2014. Đây là chính sách dành cho đào tạo nhân lực ngành Dệt may nhưng chỉ triển khai cho Tập đoàn Dệt may Việt Nam và sau chính sách này, Nhà nước cũng chưa thực hiện chính sách đặc thù tương tự dành cho đào tạo nhân lực ngành Dệt may.

Hai, chính sách hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1446/QĐ-TTg ngày 30/8/2021 về việc phê duyệt chương trình “Đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Mục tiêu chung là: “Xây dựng mô hình đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực ở các trình độ giáo dục nghề nghiệp để có kiến thức, kỹ năng phù hợp, có thể tiếp thu, làm chủ, khai thác, vận hành hiệu quả những tiến bộ công nghệ…”. Chính sách này được thực hiện từ năm 2021 – 2025. Đối tượng đào tạo là học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đối tượng đào tạo lại, bao gồm: (1) Người lao động trong các doanh nghiệp để chuyển đổi nghề nghiệp do chịu tác động của cách mạng công nghiệp 4.0; (2) Người lao động trong các doanh nghiệp ở những ngành nghề công nghệ mới hoặc cần nâng cao kiến thức, kỹ năng để tiếp thu, làm chủ và khai thác hiệu quả tiến bộ khoa học và công nghệ ở các trình độ của giáo dục nghề nghiệp.

Như vậy, đào tạo lại cho nhân lực cho các doanh nghiệp may mặc cũng thuộc đối tượng được đào tạo lại và được hưởng những quyền lợi theo Quyết định số 1446/QĐ-TTg.

Ba, chính sách hỗ trợ thông qua chiến lược phát triển ngành: năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1643/QĐ-TTg ngày 29/12/2022 về việc phê duyệt chiến lược phát triển ngành may mặc và da giầy Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035. Mục tiêu của chiến lược là: phát triển ngành dệt may và da giày là ngành chủ lực về xuất khẩu của nền kinh tế; đẩy mạnh sản xuất sản phẩm có chất lượng, có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước; giữ vững vị trí trong nhóm các quốc gia sản xuất và xuất khẩu sản phẩm dệt may, da giầy hàng đầu thế giới. Để đạt được mục tiêu của chiến lược, trong đó đã xác định các nguồn hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành dệt may, từ đó làm cơ sở để các địa phương xây dựng kế hoạch phát triển ngành dệt may.​

Mặc dù ngành may mặc là ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam nhưng những chính sách hỗ trợ đào tạo cho lao động của ngành còn rất hạn chế. Do đó, để khai thác hiệu quả các lợi thế này trong bối cảnh thị trường toàn cầu ngày càng cạnh tranh, ngành may mặc cần tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt thông qua các chương trình đào tạo nghề phù hợp với yêu cầu sản xuất hiện đại.

3.2. Chính sách đào tạo, đào tạo lại nhân lực ngành May mặc của thành phố Cần Thơ

Theo báo cáo tổng hợp số liệu từ Cục Thống kê thành phố Cần Thơ năm 2025,lực lượng lao động của thành phố đang bị suy giảm về số lượng. Trong đó, việc chi ngân sách của Cần Thơ cho giáo dục, đào tạo, dạy nghề năm 2024 là 2.780 tỷ đồng, tăng 13,4% so với năm 2023 và chiếm 41,3% tổng chi thường xuyên của ngân sách thành phố2

(1) Về sản lượng ngành May mặc của thành phố Cần Thơ giai đoạn 2019 – 2024 cho thấy, đến năm 2024, thành phố có 102 doanh nghiệp may mặc3, tăng 7 doanh nghiệp so với năm 2023. Theo Chi Cục Thống kê thành phố Cần Thơ, sản phẩm của ngành May mặc chủ yếu là 4 nhóm hàng: quần áo may sẵn, giày dép da, da các loại, túi da. Trong đó, quần áo may sẵn và giày dép da là 2 nhóm sản phẩm chính, số lượng quần áo may sẵn của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố biến động liên tục, từ trên 12 triệu sản phẩm năm 2019 tăng lên đến trên 452 triệu sản phẩm vào năm 2022 và giảm còn 48,5 triệu sản phẩm năm 2024 (giảm 89,3% so với năm 2022). Trong khi đó, sản phẩm giày dép da có xu hướng tăng lên từ 665 ngàn sản phẩm năm 2019 lên đến 9.723 ngàn sản phẩm vào năm 2021 nhưng sau đó giảm còn 2.787 ngàn sản phẩm vào năm 2024. Như vậy, nhìn chung sản lượng ngành dệt may có xu hướng giảm.

(2) Chính sách đào tạo, đào tạo lại cho lao động ngành may mặc của thành phố Cần Thơ được chú trọng, trong đó có 16 cơ sở đào tạo nhân lực, đào tạo lao động cho ngành may mặc từ hệ trung cấp đến đại học. Ngoài ra, còn có Trung tâm giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên đào tạo nghề ngắn hạn cho lao động (trình độ sơ cấp). Tuy nhiên, những cơ sở đào tạo này không triển khai những chính sách hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại nhân lực. Từ năm 2021, thành phố Cần Thơ đã ban hành một số quyết định nhằm đẩy mạnh đào tạo nhân lực, như sau: Quyết định số 550/QĐ-UBND ngày 12/3/2021 về việc tái cơ cấu sản xuất công nghiệp thành phố Cần Thơ theo hướng hiện đại, trong đó mục tiêu cho giai đoạn 2026 – 2030 là phát triển công nghiệp dệt may, da giày theo hướng ưu tiên tập trung vào các khâu tạo ra giá trị gia tăng cao gắn với các quy trình sản xuất thông minh, tự động hóa. Đồng thời, đề ra 6 nhóm giải pháp, trong đó có giải pháp, chính sách phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp. Tuy nhiên, những biện pháp cụ thể cũng như việc thực thi những định hướng giải pháp, chính sách này chưa được hướng dẫn, triển khai.

Hiện nay, thành phố cũng đang triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động, tuy nhiên chủ yếu áp dụng cho lao động nông thôn với danh mục nghề đào tạo cũng thuộc lĩnh vực nông nghiệp (như: Quyết định số 1223/QĐ-UBND ngày 22/5/2023 về việc phê duyệt danh mục nghề nông nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 03 tháng cho lao động nông thôn trên địa bàn thành phố Cần Thơ, giai đoạn 2023 – 2025). Trên cơ sở đó, hằng năm sẽ triển khai Kế hoạch Đào tạo nghề nông nghiệp trình độ sơ cấp, dưới 3 tháng cho lao động nông thôn. Ngành công nghiệp, cụ thể là ngành may mặc cũng cần có những chủ trương, chính sách cụ thể để đào tạo nhân lực cho ngành may mặc.

Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ đã ban hành Quyết định số 1602/UBND-KT ngày 10/5/2023 về việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển ngành dệt may và da giày Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 trên địa bàn thành phố. Quyết định này cũng mới dừng lại ở việc giao cho các sở ban, ngành có liên quan, các đơn vị sản xuất trong ngành dệt may và da giầy trên địa bàn thành phố thực hiện và phối hợp thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn có liên quan về may mặc, giày da nhưng chưa có kế hoạch cụ thể hay chương trình hành động để thực hiện chiến lược phát triển ngành may mặc của Cần Thơ. Tuy nhiên, giải pháp về đào tạo nhân lực ngành dệt may của Quyết định số 1643/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ chưa được triển khai trên địa bàn.

(3) Hoạt động đào tạo, đào tạo lại cho lao động ngành may mặc của doanh nghiệp ở thành phố Cần Thơ qua khảo sát 7 doanh nghiệp may mặc trong những năm qua cho thấy, hoạt động đào tạo lại của doanh nghiệp là do doanh nghiệp tự đào tạo lại (chiếm 57,1%), hình thức đào tạo chủ yếu là đào tạo nội bộ trực tiếp hoặc trực tuyến. Nội dung, kiến thức mới của đào tạo lại mà doanh nghiệp cung cấp cho người lao động chủ yếu là: kỹ năng khuyến khích, động viên, tạo động lực (chiếm 40% số ý kiến); kỹ năng kỹ thuật, chuyên môn cho công việc cụ thể (20%) và những nội dung khác như kỹ năng quản lý con người, kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống, kỹ năng tính toán, kỹ năng kỹ thuật số. Trong những doanh nghiệp có đào tạo lại cho lao động có đến 50% số doanh nghiệp lập quỹ đào tạo từ nguồn tài trợ là quỹ phát triển nguồn nhân lực của địa phương.

3.3. Chất lượng nhân lực ngành may mặc thành phố Cần Thơ trong bối cảnh đổi mới công nghệ

Nguồn nhân lực của thành phố Cần Thơ giảm về quy mô nhưng tổng số lao động ngành may mặc tại Cần Thơ tăng liên tục qua các năm. Năm 2019, tổng số lao động là 7.805 người (nữ chiếm 73,6%), năm 2023 tăng lên đến 20.690 người, tăng 165,1% so với năm 2019, trong đó tỷ trọng lao động nữ giảm còn 66,3% (giảm 7,3%) (xem Bảng 1).

Bảng 1: Số lượng lao động ngành may mặc thành phố Cần Thơ

Chỉ tiêuNăm 2019Năm 2020Năm 2021Năm 2022Năm 2023Tăng trưởng 2023/2020 (%)
Tổng số lao động7.80514.85218.13219.71420.690165,1
Trong đó, lao động nữ5.7419.34211.55312.45413714138,9
% lao động nữ/Tổng lao động73,662,963,763,266,3-9,9
Nguồn: Chi Cục Thống kê thành phố Cần Thơ, 2025

Kết quả khảo sát đánh giá của doanh nghiệp về chất lượng của các vị trí việc làm tại doanh nghiệp cho thấy, phần lớn doanh nghiệp may mặc tại Cần Thơ đánh giá chất lượng lao động đáp ứng với công việc ở mức 3 trở lên (mức bình thường trở lên), tuy nhiên phần lớn doanh nghiệp chỉ đánh giá chất lượng lao động ở mức bình thường, nhưng trong bối cảnh hội nhập, phát triển công nghệ, yêu cầu đối với người lao động ngày càng tăng và với tỷ lệ này cho thấy, ngành may mặc cần tăng cường hơn nữa công tác đào tạo cho lao động. Đối với nhân viên quản lý; nhân viên bộ phận văn phòng, hành chánh, nhân sự được đánh giá chất lượng lao động ở mức đáp ứng trở lên có tỷ lệ cao hơn. Tuy nhiên, đối với chuyên gia, chuyên môn bậc cao có đến 14,3% người được khảo sát đánh giá chất lượng lao động không đáp ứng được yêu cầu (Hình 2).

Nhìn chung, quy mô lao động tham gia ngành may mặc tại Cần Thơ tăng qua các năm phản ánh sức hút của thị trường lao động và môi trường làm việc tại đây. Chất lượng lao động ngành may mặc ở các vị trí công tác phần lớn chỉ được doanh nghiệp đánh giá ở mức bình thường, riêng vị trí lao động ngành là chuyên gia hay người có chuyên môn bậc cao chưa được đánh giá cao. Để bảo đảm chất lượng và kỹ năng của lực lượng lao động cần có các chính sách đào tạo, đào tạo lại và nâng cao trình độ cho người lao động, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp quan trọng như may mặc. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp và chính quyền địa phương cần chú trọng đến việc đào tạo và phát triển kỹ năng cho người lao động để đáp ứng nhu cầu của thị trường.

3.4. Thuận lợi và khó khăn

Thành phố Cần Thơ là nơi tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng, trung cấp kỹ thuật có thể mở ngành hoặc chuyên ngành đào tạo liên quan, phục vụ cho ngành may mặc như thiết kế thời trang, quản lý sản xuất,… Đồng thời, doanh nghiệp ngành may mặc có nhiều cơ hội để phối hợp với cơ sở đào tạo tổ chức chương trình đào tạo thực hành tại doanh nghiệp, đào tạo vừa học vừa làm cho lao động.

Ngành may mặc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung, thành phố  Cần Thơ nói riêng có lợi thế so với các tỉnh, thành phố, như: TP. Hồ Chí Minh là giá thuê lao động thấp và nguồn lao động ổn định nên có xu hướng dịch chuyển các nhà máy sản xuất từ các tỉnh Đông Nam Bộ về vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, hệ thống hạ tầng, khu cụm công nghiệp phát triển tạo điều kiện phát triển ngành công nghiệp may mặc nên nhu cầu đào tạo, đào tạo lại cho lao động gia tăng.

Tuy nhiên, Cần Thơ cũng đang gặp những khó khăn, đó là:

(1) Ngành May mặc có xu hướng bị thu hẹp: mặc dù gia tăng về số lao động tham gia ngành May mặc của thành phố nhưng những năm qua, sản lượng ngành may mặc của Cần Thơ, đặc biệt là quần áo có xu hướng giảm. Năng suất lao động ngành may mặc có xu hướng giảm và lao động dần bị thay thế do tự động hóa. Do đó, mặc dù có nhiều lợi thế nhưng ngành May mặc có nguy cơ bị thu hẹp nên gây cản trở trong việc đào tạo mới, đào tạo lại lao động.

(2) Thiếu ngân sách để tổ chức đào tạo, đào tạo lại: Nhà nước, địa phương có chủ trương phát triển ngành may mặc, có chính sách hỗ trợ đào tạo cho lao động nhưng vẫn chưa được triển khai cụ thể. Doanh nghiệp thiếu kinh phí để tổ chức đào tạo, đào tạo lại đầy đủ cho người lao động.

(3) Doanh nghiệp chưa đánh giá được nhu cầu đào tạo và sắp xếp thời gian đào tạo: trong đó, có nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện những khảo sát để xác định nhu cầu đào tạo, chưa biết những ứng dụng nào cần, nên được sử dụng trong đào tạo đối với ngành may mặc, chưa đánh giá được những thay đổi của công nghệ và doanh nghiệp, người lao động cần phải làm gì.

(4) Thiếu sự liên kết giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo: mặc dù có cơ hội hợp tác nhưng phần lớn các doanh nghiệp may mặc ít tham gia xây dựng chương trình đào tạo với các cơ sở đào tạo, chưa phát triển tốt mô hình đào tạo theo đơn đặt hàng giữa doanh nghiệp – cơ sở đào tạo, thiếu hợp tác trong việc tuyển dụng học viên sau đào tạo.

(5) Cơ sở vật chất và trang thiết bị đào tạo ngành may mặc còn hạn chế: nhiều cơ sở đào tạo nghề chưa có đầy đủ máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ dạy học (máy may công nghiệp, máy cắt tự động, phần mềm thiết kế rập,…), thiếu xưởng thực hành mô phỏng dây chuyền sản xuất thực tế cho người học nên doanh nghiệp may mặc khó tiếp cận để liên kết đào tạo, đào tạo lại theo nhu cầu của doanh nghiệp.

4. Một số giải pháp

Trước bối cảnh công nghệ sản xuất, chuyển đổi số ngày càng phát triển, ngành may mặc bên cạnh phải chuyển đổi để phù hợp với xu hướng phát triển, cần phải tăng cường các hoạt động đào tạo cho người lao động để thích ứng với sự thay đổi, nắm bắt công nghệ, đồng thời giải quyết những khó khăn:

Thứ nhất, giải pháp về chính sách và định hướng phát triển ngành.

Địa phương cần có quy hoạch, chiến lược phát triển ngành may mặc theo hướng thích ứng bằng cách tái cấu trúc ngành may mặc của thành phố Cần Thơ theo hướng hiện đại, tập trung vào các phân khúc có giá trị cao để tiếp cận người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; thúc đẩy ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành may mặc để tăng giá trị nội địa và tính chủ động nguyên phụ liệu.

Trên cơ sở định hướng, kế hoạch phát triển ngành may mặc, thành phố cần có cơ chế hỗ trợ tài chính đặc thù cho ngành may mặc từ nguồn ngân sách địa phương hoặc trung ương để hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại nhân lực ngành may mặc. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ bằng cách cho doanh nghiệp vay ưu đãi hoặc giảm thuế nếu doanh nghiệp tổ chức đào tạo nội bộ hoặc hợp tác với cơ sở đào tạo để đào tạo tại chỗ hoặc đào tạo ở cơ sở đào tạo.

Xây dựng mô hình hợp tác giữa các bên gồm chính quyền địa phương – doanh nghiệp – cơ sở đào tạo, trong đó Nhà nước hỗ trợ kinh phí, doanh nghiệp xác định nhu cầu đào tạo và cung cấp cơ sở vật chất để thực hành, cơ sở đào tạo đào tạo lý thuyết và hướng dẫn tiếp cận chuyển đổi số trong sản xuất. Chính quyền địa phương kết nối doanh nghiệp may mặc, cơ sở đào tạo ở thành phố Cần Thơ với các doanh nghiệp lớn, các chương trình hỗ trợ phát triển nghề,… để huy động nguồn lực đầu tư thiết bị hiện đại sử dụng trong đào tạo, sản xuất của ngành May mặc.

Thứ hai, nâng cao năng lực nghiên cứu, lập kế hoạch đào tạo cho doanh nghiệp.

Sở, ban, ngành liên quan tổ chức tập huấn, hướng dẫn doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu giúp doanh nghiệp đánh giá kỹ năng của lao động hiện tại, xác định kỹ năng còn thiếu, các công nghệ mới cần cập nhật, dự báo nhu cầu tương lai, nhận diện nhu cầu đào tạo,… để doanh nghiệp xác định nội dung, kỹ năng cần đào tạo cho người lao động. Việc tập huấn, hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng kế hoạch đào tạo nội bộ, phân bổ thời gian đào tạo linh hoạt theo mùa vụ sản xuất hoặc theo ca sản xuất.

Thứ ba, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo.

Đẩy mạnh phát triển mô hình đào tạo theo đơn đặt hàng, sau khi doanh nghiệp xác định nội dung đào tạo, doanh nghiệp có thể tự tổ chức đào tạo nội bộ hoặc doanh nghiệp đặt hàng chương trình đào tạo theo vị trí việc làm cụ thể, cơ sở đào tạo sẽ xây dựng chương trình theo yêu cầu. Có thể tận dụng nguồn hỗ trợ từ kinh phí đào tạo nghề theo chính sách của Nhà nước.

Nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo: phát triển xưởng thực hành theo cơ chế dùng chung giữa các cơ sở đào tạo nghề và doanh nghiệp, phục vụ cả dạy học của cơ sở đào tạo và sản xuất thử nghiệm của doanh nghiệp thay vì mỗi đơn vị tự đầu tư dàn trải, không tận dụng tối ưu máy móc thiết bị đào tạo. Doanh nghiệp và cơ sở đào tạo đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số vào đào tạo và sản xuất cho ngành may mặc, tích hợp các phần mềm thiết kế rập, mô phỏng dây chuyền sản xuất, video hướng dẫn thao tác, tạo điều kiện học tập chủ động, tiết kiệm chi phí cho người lao động và doanh nghiệp.

5. Kết luận

Ngành May mặc Việt Nam đang chịu tác động mạnh mẽ từ các yêu cầu về chuyển đổi số, những thay đổi về công nghệ sản xuất trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, đào tạo lại thường xuyên để nắm bắt kiến thức, kỹ thuật mới. Tại thành phố Cần Thơ, số lượng doanh nghiệp may mặc còn hạn chế, ngành May mặc chủ yếu phát triển theo mô hình gia công, quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ vẫn còn lạc hậu, nguồn lao động thiếu kỹ năng, sản lượng đầu ra bị thu hẹp, doanh nghiệp gặp một số khó khăn trong đào tạo, đào tạo lại cho lao động. Do đó, việc xây dựng chính sách và mô hình đào tạo lại phù hợp cho lực lượng lao động ngành May mặc tại địa phương là vấn đề cấp thiết, cần được triển khai để góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho thành phố Cần Thơ trong bối cảnh chuyển đổi số.

Chú thích:

1. CJSC (2024). Danh sách các khu công nghiệp thành phố Cần Thơ. https://cjsc.vn/tin-tuc/thong-tin-cac-khu-cong-nghiep/danh-sach-cac-khu-cong-nghi-p-thanh-ph-c-n-tho-2881.htm.

2. Cục Thống kê thành phố Cần Thơ (2025). Báo cáo số 01/BC-CTK ngày 02/01/2025 về tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2024.

3. Cục Thống kê thành phố Cần Thơ (2025). Niên giám thống kê thành phố Cần Thơ năm 2024. NXB Thống kê.

Tài liệu tham khảo:

1. Quốc hội (2014). Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014.

2. Thủ tướng Chính phủ (2014). Quyết định số 288/QĐ-TTg ngày 26/02/2014 về việc hỗ trợ kinh phí đào tạo nguồn nhân lực dệt may Việt Nam cho Tập đoàn Dệt May Việt Nam.

3. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 1446/QĐ-TTg ngày 30/8/2021 về việc phê duyệt chương trình đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

4. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 1643/QĐ-TTg ngày 29/12/2022 về việc phê duyệt chiến lược phát triển ngành Dệt may và da giầy Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035.

5. UBND thành phố Cần Thơ (2021). Quyết định số 550/QĐ-UBND ngày 12/3/2021 về việc tái cơ cấu sản xuất công nghiệp thành phố Cần Thơ theo hướng hiện đại.

6. UBND thành phố Cần Thơ (2023). Quyết định số 1602/UBND-KT ngày 10/5/2023 về việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển ngành Dệt may và da giầy Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 trên địa bàn thành phố.

7. UBND thành phố Cần Thơ (2023). Quyết định số 1223/QĐ-UBND ngày 22/5/2023 về việc phê duyệt danh mục nghề nông nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng cho lao động nông thôn trên địa bàn thành phố Cần Thơ, giai đoạn 2023 2025.

8. Chính sách hậu đại dịch cho một số ngành ở Việt Nam. https://thesaigontimes.vn/chinh-sach-hau-dai-dich-cho-mot-so-nganh-o-viet-nam/?fbclid=IwAR11DK1lmEbUXxBF5I2XlEmQpSrQ8c2MoRcakGxxKBRrt10wgd6.