ThS. Nguyễn Thế Mừng
Trường Đại học Điện lực
(Quanlynhanuoc.vn) – Với vị trí là trụ cột cơ bản trong hệ thống an sinh xã hội, chính sách về bảo hiểm xã hội luôn được Đảng và Nhà nước dành sự quan tâm đặc biệt. Quá trình đổi mới, cải cách chính sách bảo hiểm xã hội đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra sao cho phù hợp, bám sát với đặc trưng của nền kinh tế – xã hội của nước ta trong thời kỳ mới. Đảng và Nhà nước xác định rõ định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội phải có lộ trình phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Từ khóa: Pháp luật, bảo hiểm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội bắt buộc.
1. Thực trạng pháp luật về đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện
Đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc được quy định tại Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, sau đó được hướng dẫn chi tiết và sửa đổi, bổ sung nhiều lần tại Điều 2 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm bắt buộc, Điều 2 Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2015, Điều 1 Thông tư số 06/2021/TT-BLĐTBXH ngày 28/7/2021 bao quát hầu như toàn bộ lực lượng lao động cả người lao động và người sử dụng lao động. Cụ thể, người lao động là đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc khi có quan hệ lao động không chỉ trong khối nhà nước mà còn các thành phần kinh tế khác, kể cả người lao động được cử đi học, thực tập công tác trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương ở trong nước và người hưởng chế độ phu nhân hoặc phu quân tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Tuy nhiên, không phải đối tượng nào cũng được hưởng đầy đủ chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc, đối tượng người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn; người hưởng chế độ phu nhân hoặc phu quân tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thuộc diện ký hợp đồng với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đó, thực tập nâng cao tay nghề hoặc hợp đồng cá nhân chỉ thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất.
Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn đã mở rộng thêm một số nhóm đối tượng người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, như sau: người lao động làm việc theo hợp đồng lao động thời hạn từ đủ 1 tháng – dưới 3 tháng. Thực tế áp dụng cho thấy, tính đến cuối năm 2019, có 13.533 người tham gia bảo hiểm xã hội theo hợp đồng lao động có thời hạn từ 01 – dưới 3 tháng. Mặc dù vậy con số này chỉ chiếm khoảng 0,1% số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Có thể đánh giá, việc quy định mở rộng diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sang nhóm đối tượng này không được như kỳ vọng.
Người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp. Luật Bảo hiểm xã hội ghi nhận người lao động là công dân nước ngoài, là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Điều này cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi tốt hơn cho người lao động nước ngoài khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập và đây cũng là một nguồn bổ sung quỹ bảo hiểm xã hội. Từ năm 2018, lao động là người nước ngoài thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc với 3 chế độ ngắn hạn là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; từ năm 2022, tham gia đầy đủ cả 5 chế độ (thêm hưu trí và tử tuất). Trong 3 năm từ 2018 – 2020, số người nước ngoài tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tăng dần, cụ thể lần lượt là 37.052, 68.178, 69.542 người, chiếm khoảng 70% số người nước ngoài làm việc theo giấy phép tại Việt Nam. Song số lao động tham gia không đầy đủ 100% là do hiện nay mới quy định những đối tượng làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ 12 tháng trở lên mới thuộc diện tham gia.
Người lao động là người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, phường, thị trấn. Việc bổ sung nhóm đối tượng này được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội là một ghi nhận sự cống hiến của nhóm đối tượng này cũng như đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của họ. Tại Thông tư số 06/2021/TT-BLĐTBXH ngày 07/7/2021 bổ sung người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn, đồng thời là người giao kết hợp đồng lao động quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội thì tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Với số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là cán bộ không chuyên trách cấp xã giai đoạn 2017 – 2020 lần lượt là: 137.131; 132.601; 129.155 và 116.40330. Con số này giảm qua mỗi năm là do chính sách tinh giản biên chế. Tuy nhiên, mức trung bình cũng chỉ chiếm khoảng 0,9% tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn (khoảng 40 nghìn người) chuyển từ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nên số tăng mới thực sự chỉ khoảng 80 nghìn người. Bên cạnh đó, việc quy định nhóm này tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc ở hai chế độ với mức đóng bằng 1 lần mức lương cơ sở là hẹp về quyền lợi và thấp về mức hưởng kỳ vọng. Đối với nhóm đối tượng người lao động miễn trừ (không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc) được quy định bổ sung cụ thể tại khoản 4 Điều 2 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc. Cụ thể, người lao động có hợp đồng lao động từ trên 1 tháng trở lên là giúp việc gia đình và một số nhóm người lao động khác thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hằng tháng theo luật định thì không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Hiện nay, luật chưa quy định các nhóm này tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau, ví dụ người giúp việc gia đình không có tính ổn định trong quan hệ lao động, người hưởng lương hưu hay trợ cấp khác không còn trong quan hệ lao động.
Nhóm đối tượng mà Luật Bảo hiểm xã hội bổ sung điều chỉnh đã làm tăng lên diện bao phủ bảo hiểm xã hội bắt buộc, tuy nhiên đây là những nhóm luôn biến động, không dễ quản lý. Đặc biệt, vấn đề đóng góp tài chính và nhận thức của người sử dụng lao động luôn là yếu tố quyết định sự tham gia của nhóm lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng – dưới 3 tháng. Đối với người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam, việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc (đặc biệt là chế độ hưu trí và tử tuất) phụ thuộc rất nhiều vào các hiệp định song phương về bảo hiểm xã hội giữa Việt Nam và các nước có công dân làm việc tại Việt Nam.
Ngoài người lao động thì đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc còn có người sử dụng lao động, quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật bảo hiểm xã hội. Cụ thể, người sử dụng lao động, bao gồm: cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động. Họ có trách nhiệm lập hồ sơ để người lao động được cấp sổ bảo hiểm xã hội, đóng hưởng bảo hiểm xã hội theo quy định và hằng tháng trích từ tiền lương của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội, phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội trả trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người lao động và một số nhiệm vụ khác theo luật định.
Việc quy định người sử dụng lao động là đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm xã hội là hợp lý bởi vì điều đó thể hiện trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động, đồng thời cũng là cách để người sử dụng lao động bảo vệ cho chính mình khi rủi ro sẽ được xã hội chia sẻ. Tuy nhiên, theo số liệu khảo sát doanh nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 95,9% trong tổng số 415.656 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa lần lượt chiếm 65,2%; 29,3% và 1,4%. Các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa thường gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất – kinh doanh nên khó có thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý về bảo hiểm xã hội đối với người lao động của mình.
Việc phát triển đối tượng người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc trong thời gian qua theo số liệu thống kê của bảo hiểm xã hội Việt Nam, như sau:
Bảng 2.1: Tình hình tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc giai đoạn 2016 – 2020
Đơn vị tính: nghìn người
| Tiêu chí | 2016 | 2017 | 2018 | 2019 | 2020 |
| Số lao động tham gia | 12.852 | 13.596 | 14.455 | 15.200 | 15.033 |
| Tốc độ tăng (%) | – | 5,6 | 6,3 | 5,2 | -1,1 |
| Số lao động làm công hưởng lương | 22.229 | 23.479 | 24.615 | 26.874 | 25.674 |
| Tỷ lệ tham gia (%) | 57,8 | 57,9 | 58,7 | 56,6 | 58,6 |
Cùng với sự nỗ lực của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong việc thực hiện các biện pháp quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, số lượng đơn vị sử dụng lao động và số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tăng lên hằng năm. Trong giai đoạn 2016 – 2020, số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tăng thêm 2.181 nghìn người (trung bình mỗi năm tăng 4%); năm 2020 số người lao động tham gia bảo hiểm xã hội giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Bên cạnh đó, việc phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Về quy mô tham gia bảo hiểm xã hội trên thực tế, tính đến năm 2020, mới chỉ có gần 33,5% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, vẫn còn gần 32 triệu người trong lực lượng lao động trong độ tuổi lao động (khoảng 66,5%) chưa tham gia bảo hiểm xã hội.
Mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 60% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 là một thách thức rất lớn nếu không có những giải pháp căn bản về cả chính sách và công tác tổ chức thực hiện chính sách. Tính đến cuối 2020, Việt Nam có khoảng 14,1 triệu người sau độ tuổi nghỉ hưu. Trong số đó, chỉ có khoảng trên 3,1 triệu người đang được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng (chiếm 22,1%) tổng số người sau độ tuổi nghỉ hưu. Nếu tính cả những người đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội (1,8 triệu người) thì tổng cộng có khoảng gần 5 triệu người (chiếm 35%) được hưởng các khoản trợ cấp hằng tháng. Như vậy, vẫn còn khoảng 9,2 triệu người sau độ tuổi nghỉ hưu (chiếm 65%) chưa thuộc diện bao phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội hoặc tầng an sinh xã hội nào khác. So sánh số người lao động đã tham gia bảo hiểm xã hội với số lao động làm công hưởng lương (tương đương với số lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội) thì mới có gần 60% số lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Hơn nữa, số lượng người lao động ra khỏi hệ thống bảo hiểm gia tăng, bởi vì số đối tượng nhận bảo hiểm xã hội một lần ở mức cao, mỗi năm có hàng trăm nghìn người hưởng bảo hiểm xã hội một lần. Nếu so sánh giữa số lao động giải quyết hưởng bảo hiểm xã hội một lần với số lao động tham gia bảo hiểm xã hội tăng mới thì tỷ lệ này tương đối cao (từ 2016 – 2019, mỗi năm xấp xỉ 45%, năm 2020 tỷ lệ này tăng lên 73,3%).
Bảng 2.2: Tỷ lệ số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng mới và số người giải quyết hưởng bảo hiểm xã hội một lần
giai đoạn 2016 – 2020
Đơn vị: nghìn người
| Tiêu chí | 2016 | 2017 | 2018 | 2019 | 2020 |
| Số tham gia bảo hiểm xã hội tăng mới | 1.387 | 1.431 | 1.674 | 1.849 | 1.224 |
| Số người giải quyết hưởng bảo hiểm xã hội một lần | 620 | 667 | 762 | 807 | 897 |
| Tỷ lệ (%) | 44,8 | 46,5 | 45,5 | 43,6 | 73,3 |
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2019, cả nước có hơn 5,6 triệu hộ kinh doanh cá thể, gấp 8 lần số lượng doanh nghiệp. Và theo số liệu cơ quan thuế quản lý thì cả nước có hơn 1,7 triệu lượt hộ nộp thuế (hộ có doanh thu dưới 100 triệu đồng/năm không phải nộp). Tuy nhiên hiện nay nhóm này chưa thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; chỉ có rất ít chủ hộ kinh doanh cá thể hiện đang tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Bên cạnh đó, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2019 có khoảng 23 nghìn hợp tác xã hoạt động thu hút gần 6 triệu thành viên tham gia, trong đó có 1,2 triệu người lao động làm việc trong khu vực hợp tác xã. Tuy nhiên, theo báo cáo của cơ quan bảo hiểm xã hội thì hiện nay mới có gần 7 nghìn hợp tác xã đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc cho khoảng 41 nghìn người lao động. Qua khảo sát tại một số địa phương, nhiều người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương có nguyện vọng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Việc phát triển đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc còn gặp hạn chế khiến diện bao phủ bảo hiểm xã hội bắt buộc còn thấp chưa xứng với tiềm năng. Điều đó có thể do một số nguyên nhân, như: chính sách bảo hiểm xã hội hiện hành chưa hướng đến bao phủ toàn dân; hệ thống bảo hiểm xã hội về cơ bản còn thiết kế đơn tầng, thiếu sự kết nối giữa chính sách bảo hiểm xã hội với các chính sách xã hội khác, như: chính sách bảo trợ xã hội đối với người cao tuổi, người khuyết tật; chính sách giảm nghèo bền vững; chính sách tạo việc làm, hỗ trợ duy trì, chuyển đổi việc làm nên diện bao phủ còn thấp. Bảo hiểm xã hội bắt buộc còn bỏ sót một số nhóm đối tượng có nhu cầu và có khả năng nhưng chưa được luật hóa để tham gia như chủ hộ kinh doanh cá thể; người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm việc theo chế độ linh hoạt. Số lượng hưởng bảo hiểm xã hội một lần tăng nhanh chóng dẫn tới độ bao phủ bảo hiểm xã hội tăng chậm. Việc chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức diễn ra còn chậm làm cho số người thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc chưa tăng cao (lao động phi chính thức là lao động tự tạo công việc, không có hợp đồng lao động, không được đóng bảo hiểm xã hội hay hưởng lương cố định).
Tóm lại, quy định về đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc đã được mở rộng hơn trước đây, bước đầu đáp ứng các tiêu chí hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng một số đối tượng có tiềm năng và mong muốn được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì pháp luật chưa quy định. Hơn nữa, trong quá trình tổ chức thực hiện do nhận thức về tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội bắt buộc và pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc của một số đối tượng chưa đầy đủ, tinh thần, trách nhiệm đóng phí bảo hiểm xã hội bắt buộc chưa cao nên vẫn bỏ lọt các đối tượng đã được quy định bắt buộc tham gia nhưng không tham gia. Chính vì vậy, trong thời gian tới việc sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc thật sự cần thiết.
3. Giải pháp sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện quy định về đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc
Thứ nhất, mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội bắt buộc hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đặt ra mục tiêu: cải cách chính sách bảo hiểm xã hội để thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng – hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững.
Trên thế giới có khái niệm là bảo hiểm xã hội phổ cập. Phổ cập khác với toàn dân ở chỗ bảo hiểm phổ cập là bảo hiểm cho mọi người lao động (dù là bắt buộc hay tự nguyện) đều có thể tham gia và hưởng thụ ở mức tối thiểu theo luật định. Còn bảo hiểm toàn dân, hiểu theo nghĩa là, mọi người dân đều có quyền tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội khi đủ điều kiện. Hiểu một cách hình ảnh, nếu chụp cắt lớp tại một thời điểm thì toàn bộ dân cư, bao gồm các nhóm dưới tuổi lao động, trong tuổi lao động và ngoài tuổi lao động thì chỉ những người lao động mới là người tham gia bảo hiểm xã hội và những người dưới tuổi lao động được quyền khi họ đủ tuổi lao động. Còn theo trục thời gian thì các nhóm dân cư dưới tuổi lao động ai cũng phải đến tuổi lao động (trừ những người chết sớm) và rời khỏi tuổi lao động (nếu không bị chết trong quá trình lao động). Chính vì vậy, trong Nghị quyết số 28 có đưa ra mục tiêu đến năm 2025 phấn đấu đạt khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm xã hội và đến năm 2030, tỷ lệ này đạt khoảng 60% (phấn đấu). Điều này có nghĩa, toàn dân không hàm ý toàn bộ dân cư tham gia bảo hiểm xã hội (ở một thời điểm) mà phấn đấu tăng tỷ lệ người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Không một quốc gia nào trên thế giới 100% người dân tham gia bảo hiểm xã hội mà chỉ có 100% người dân có quyền tham gia bảo hiểm xã hội và 100% người dân là đối tượng của hệ thống an sinh quốc gia quốc gia với các cơ chế khác nhau.
Qua nghiên cứu pháp luật về đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc trên thế giới cho thấy, xu hướng hiện nay thì đối tượng ngày càng được mở rộng, đặc biệt với quan điểm về bảo hiểm xã hội toàn dân có thể hiểu là mọi người dân đều có quyền tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội khi đủ điều kiện. Khi đó bảo hiểm xã hội bắt buộc thực sự là chính sách an sinh xã hội quan trọng phục vụ đời sống con người, góp phần bảo đảm cho xã hội an toàn, phát triển.
Thứ hai, bổ sung đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc cụ thể: bổ sung người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 01 tháng trở lên kể cả trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên, kể cả người lao động làm việc không trọn thời gian, có mức tiền lương tháng bằng hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất theo quy định; chủ hộ kinh doanh; người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương.
Theo Nghị quyết số 28-NQ/TW, mục tiêu mở rộng diện bao phủ tới bảo hiểm xã hội toàn dân, khi đó, số lao động này sẽ làm gia tăng diện bao phủ bảo hiểm xã hội bắt buộc thêm hàng triệu người. Hơn nữa đây là đối tượng tuy chưa có quan hệ lao động nhưng có thu nhập ổn định, có việc làm ổn định và đang thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ nên rất phù hợp để họ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Quy định như vậy phù hợp với các quy định của pháp luật trên thế giới như Điều 22 Tuyên bố phổ quát về nhân quyền của Liên Hợp quốc ghi nhận, mọi người là thành viên của xã hội (bao gồm cả lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức) đều có quyền được bảo đảm an sinh xã hội thông qua nỗ lực của quốc gia và hợp tác quốc tế. Bổ sung đối tượng chủ hộ kinh doanh cá thể, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương bởi vì hiện nay nhóm đối tượng này tương đối đông lại đang có nhu cầu và có khả năng để tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Ở Việt Nam, số lượng hộ kinh doanh, hợp tác xã chiếm tỷ trọng cao, do đó chủ hộ kinh doanh và người quản lý điều hành là đối tượng có thu nhập tương đối ổn định. Những lao động có việc làm được trả công nhưng không có hợp đồng lao động cũng tồn tại trong thực tế rất nhiều. Đặc biệt, lao động lái xe ôm, xe taxi dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ đang là xu thế trong thời đại công nghệ 4.0. Những lao động này có thu nhập không thấp và có mong muốn được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc để được hưởng trợ cấp khi ốm đau hay lúc về già có lương hưu. Đây là yêu cầu chính đáng, phù hợp với chủ trương của Nhà nước về mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Thứ ba, Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức và nông nghiệp rất lớn nên cần thiết đưa các đối tượng tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ kinh phí cho người lao động thuộc khu vực không chính thức có mức thu nhập thấp tham gia bảo hiểm xã hội làm cơ sở cho việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc trong tương lai đối với nhóm này. Kinh nghiệm ở Thái Lan đã xây dựng Quỹ Tiết kiệm quốc gia (NSF) vào năm 2015. Đây là chương trình đồng đóng góp do Chính phủ hỗ trợ cho người lao động phi chính thức khi tham gia bảo hiểm xã hội. Theo đó, mức hỗ trợ là 50%, 80% và 100% mức đóng cho người lao động phi chính thức tương ứng với các nhóm tuổi là dưới 30 tuổi, từ 30 đến 50 tuổi và trên 50 tuổi. Mức hỗ trợ này không vượt quá 100 Bạt/tháng. Hình thức hỗ trợ tài chính này được đánh giá là hiệu quả với nhóm lao động thu nhập thấp và trung bình. Thái Lan đã thành công khi mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội theo chiều rộng.
Thứ tư, bổ sung quy định chính sách hỗ trợ đối tượng người sử dụng lao động là doanh nghiệp nhỏ và vừa để có thể duy trì khả năng và năng lực đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cho người lao động. Cụ thể, Nhà nước có chính sách hỗ trợ về tài chính như các gói hỗ trợ đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo cơ hội để họ phát triển kinh doanh, tăng doanh thu, như: hỗ trợ về công nghệ, liên kết các doanh nghiệp trong và ngoài nước…
4. Kết luận
Thực tế ở Việt Nam số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đa số trong các doanh nghiệp, do đó đây là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc rất tiềm năng. Việc tạo điều kiện cũng như hỗ trợ cho nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa là chính sách phát triển kinh tế, đồng thời giúp tăng cường diện bao phủ của chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng luôn được coi trọng, được quy định tại Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 và Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo đó có thể kết hợp cùng chính sách bảo hiểm xã hội với các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sẽ mang lại hiệu quả cao. Thông qua hoạt động giáo dục tại doanh nghiệp hoặc trực tuyến có kết hợp nội dung chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc sẽ nâng cao nhận thức của doanh nghiệp vừa và nhỏ để họ thấy rõ vai trò của bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với chính doanh nghiệp và người lao động.
Tài liệu tham khảo:
1. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2021). Báo cáo đánh giá tổng kết thi hành Luật Bảo hiểm xã hội giai đoạn 2016-2020.
2. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2021). Bản tin Thị trường lao động, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội giai đoạn 2016 – 2020.
3. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2014). Báo cáo đánh giá tác động của chính sách Luật bảo hiểm xã hội năm 2014.
4. TS. Hoàng Bích Hồng (2021). Thực trạng và giải pháp phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Tạp chí Tài chính kỳ 1+2 tháng 02/2021, tr. 18.
5. Chính sách bảo hiểm xã hội – Lợi ích thiết thực, tính ưu việt, an toàn và đáng tin cậy đối với người lao động. https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/linh-vuc-bao-hiem-xa- hoi.aspx.
6. Một số suy nghĩ về bảo hiểm xã hội toàn dân và bảo hiểm xã hội đa tầng. http://www.bhxhbqp.vn/bai-viet/mot-so-suy-nghi-ve-bao-hiem-xa-hoi-toan-dan-va-bao-hiem-xa-hoi-da-tang.
7. Giang Thanh Long, Đỗ Thị Thu, Phí Mạnh Phong (2021). Báo cáo tổng quan và phân tích chính sách bảo hiểm xã hội.



