ThS. Phạm Duy Cảnh
Học viện Hành chính và Quản trị công
(Quanlynhanuoc.vn) – Bảo đảm quyền trẻ em là một phần không thể tách rời của quyền con người. Việt Nam đã có nhiều nỗ lực và đạt thành tựu đáng ghi nhận, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhất là trong việc hoàn thành sớm mục tiêu Thiên niên kỷ về chăm sóc trẻ em. Tuy nhiên, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí vẫn cố tình xuyên tạc, phủ nhận nhằm chống phá Việt Nam về vấn đề quyền con người, trong đó có quyền trẻ em.
Từ khóa: Quyền con người; quyền trẻ em; phản bác; luận điệu sai trái.
1. Đặt vấn đề
Trẻ em là tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc. Thông điệp “Trẻ em hôm nay – Thế giới ngày mai” không chỉ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà còn thể hiện nhận thức tiến bộ của nhân loại về vai trò, vị trí của trẻ em trong sự phát triển bền vững. Trong 40 năm đổi mới, Việt Nam đạt nhiều thành tựu trong bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền trẻ em. Đảng và Nhà nước luôn coi trọng công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, hướng đến sự phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Nhiều chính sách, chương trình đã được ban hành, thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với quyền trẻ em và trên thực tế, trẻ em Việt Nam ngày càng được gia đình, nhà trường, xã hội quan tâm, chăm sóc, phát triển với những điều kiện tốt nhất.
Mặc dù vậy, các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề quyền con người của trẻ em để xuyên tạc, chống phá Việt Nam. Do đó, việc nhận diện, phản bác quan điểm sai trái thông qua những thành tựu nổi bật về bảo vệ quyền trẻ em thời kỳ đổi mới là nhiệm vụ rất quan trọng, góp phần giữ vững ổn định và phát triển đất nước.
2. Nhận diện các quan điểm sai trái về quyền trẻ em ở Việt Nam
Một là, xuyên tạc về tình hình bạo hành, xâm hại trẻ em. Mặc dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực và đạt được những thành tựu trong công tác bảo vệ trẻ em, nhưng các thế lực thù địch vẫn lợi dụng các vụ việc bạo hành, xâm hại trẻ em (vốn là vấn đề xảy ra ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới) để phóng đại, bóp méo, tạo ấn tượng rằng, Việt Nam không bảo vệ được trẻ em hoặc Nhà nước dung túng cho các hành vi này.
Hai là, lợi dụng trẻ em vào các hoạt động chính trị, chống phá. Một số đối tượng kích động, lôi kéo trẻ em tham gia vào các hoạt động biểu tình, chống đối chính quyền, sau đó đưa ra các thông tin sai lệch rằng trẻ em bị đàn áp, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp. Điều này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý và sự phát triển của trẻ em.
Ba là, xuyên tạc về quyền được học tập, chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Mặc dù Việt Nam đã phổ cập giáo dục, có nhiều chính sách hỗ trợ trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nhưng các luận điệu xuyên tạc vẫn cho rằng, trẻ em Việt Nam không được tiếp cận giáo dục chất lượng, không được chăm sóc y tế đầy đủ, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa.
Bốn là, xuyên tạc về quyền được tham gia và tự do ngôn luận của trẻ em. Các thế lực thù địch đã so sánh khập khiễng vấn đề này khi dựa trên các mô hình tham gia của trẻ em ở một số nước phương Tây không hoàn toàn phù hợp với bối cảnh văn hóa – xã hội Việt Nam để vu khống Việt Nam không tạo điều kiện cho trẻ em bày tỏ ý kiến. Những thế lực thù địch này cố tình bỏ qua các diễn đàn trẻ em, hội đồng trẻ em, các kênh góp ý của trẻ em thông qua nhà trường, hoạt động của Đoàn, Đội và một số diễn đàn chính trị, xã hội khác đang diễn ra thường xuyên ở nước ta.
Năm là, phủ nhận nỗ lực của Việt Nam trong việc thực thi Công ước Liên Hợp quốc về quyền trẻ em (CRC). Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn CRC. Điều này thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo vệ và thực hiện quyền trẻ em. Tuy nhiên, các luận điệu xuyên tạc thường cố tình bỏ qua những thành tựu này, tập trung vào những mặt còn hạn chế (vốn là thách thức chung của nhiều quốc gia đang phát triển) để phủ nhận toàn bộ nỗ lực của Việt Nam. Khi có một vụ việc tiêu cực liên quan đến trẻ em xảy ra, các đối tượng này thường khai thác triệt để, thổi phồng và quy chụp đó là vấn đề mang tính hệ thống, do chính sách của Nhà nước gây ra nhằm hạ thấp uy tín của Việt Nam.
Các quan điểm sai trái về quyền trẻ em ở Việt Nam đều có những mục đích rõ ràng, thâm độc nhằm gây bất ổn và cản trở sự phát triển của đất nước.
Thứ nhất, hạ thấp uy tín của Việt Nam. Những luận điệu này được tạo ra để làm suy yếu niềm tin của người dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ, gây hoang mang dư luận. Chúng tìm cách vẽ nên một bức tranh tiêu cực, bóp méo hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, khiến các đối tác và bạn bè quốc tế có cái nhìn sai lệch về nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
Thứ hai, tạo cớ để can thiệp vào công việc nội bộ. Bằng cách tung ra những cáo buộc vô căn cứ về “vi phạm nhân quyền” hay “vi phạm quyền trẻ em”, các thế lực thù địch tạo ra một “lý do” để gây sức ép chính trị và tìm cách can thiệp vào các chính sách đối nội của Việt Nam. Mục đích cuối cùng là gây bất ổn xã hội, phục vụ cho ý đồ riêng của họ.
Thứ ba, kích động, gây chia rẽ. Các luận điệu xuyên tạc này thường nhắm vào những điểm yếu, khai thác cảm xúc để gieo rắc sự hoài nghi, bất mãn trong xã hội, đặc biệt là trong giới trẻ. Chúng muốn tạo ra sự chia rẽ giữa người dân với chính quyền, giữa các tầng lớp xã hội, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ tư, gây khó khăn cho các hoạt động hợp tác quốc tế. Bằng cách lan truyền thông tin sai lệch, làm phức tạp hóa quá trình Việt Nam tham gia và thực hiện các công ước quốc tế liên quan đến quyền trẻ em và các lĩnh vực khác. Điều này có thể ảnh hưởng đến các dự án hợp tác, viện trợ phát triển và gây khó khăn cho Việt Nam trong việc hội nhập sâu rộng hơn vào cộng đồng quốc tế.
Thứ năm, phục vụ lợi ích chính trị cá nhân hoặc nhóm. Một số cá nhân hoặc tổ chức có thể lợi dụng vấn đề quyền trẻ em để tìm kiếm sự ủng hộ, tài trợ từ bên ngoài hoặc để xây dựng hình ảnh “người đấu tranh vì nhân quyền” nhằm trục lợi cá nhân, bất chấp sự thật và lợi ích chung của đất nước.
3. Những thành tựu bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia tích cực thực hiện Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em và là nước sớm hoàn thành Mục tiêu Thiên niên kỷ liên quan đến trẻ em, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo dục và giảm tỷ lệ trẻ em sống trong nghèo đói. Các chính sách và chương trình quốc gia đã từng bước tạo lập môi trường sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em, góp phần bảo đảm các quyền cơ bản, như: quyền được sống, phát triển toàn diện được bảo vệ khỏi bạo lực, bóc lột, lạm dụng và được tham gia vào các vấn đề có liên quan đến trẻ em. Nổi bật ở các thành tự như:
Một là, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em.
Ngay từ những ngày đầu thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù đối mặt với nhiều khó khăn, Đảng và Nhà nước ta vẫn đặc biệt quan tâm xây dựng hệ thống pháp luật phục vụ quốc kế dân sinh, trong đó có bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Các bản Hiến pháp từ năm 1946, 1980 và nhiều văn bản pháp luật, chính sách cụ thể trong giai đoạn này đã được ban hành, như: Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, 1986, Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989… đều ghi nhận các quyền cơ bản của trẻ em, như: quyền được chăm sóc, giáo dưỡng và hỗ trợ học tập và khẳng định vai trò của gia đình, Nhà nước và xã hội trong sự nghiệp bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Cùng với việc Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em năm 1990, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã có những bước phát triển rõ nét về nội dung, hình thức và cơ chế thực hiện. Nhà nước từng bước nội luật hóa các cam kết quốc tế này vào hệ thống pháp luật quốc gia, thể hiện qua việc ban hành Hiến pháp năm 1992 (Điều 65) và nhiều văn bản nhằm cụ thể hoá Hiến pháp và nội luật hóa Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước.
Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam tích cực thực hiện các cam kết quốc tế về quyền trẻ em trong khuôn khổ Mục tiêu Thiên niên kỷ, thể hiện qua việc phê chuẩn hai Nghị định thư bổ sung Công ước Liên Hợp quốc về quyền trẻ em (2001)1, cùng nhiều công ước quốc tế khác, như: Công ước ILO số 138 về tuổi tối thiểu đi làm việc, Công ước ILO số 182 về xóa bỏ lao động trẻ em tồi tệ nhất và Công ước La Hay số 33 về con nuôi quốc tế. Trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật trong nước được hoàn thiện theo hướng tiệm cận chuẩn mực quốc tế, nổi bật là Hiến pháp năm 2013, trong đó Điều 37, Điều 58 quy định rõ quyền trẻ em và trách nhiệm bảo vệ của Nhà nước, gia đình và xã hội. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và thay đổi xã hội nhanh chóng, Quốc hội (khóa XIII) đã ban hành Luật Trẻ em năm 2016 gồm 7 chương, 106 điều, xác lập 25 quyền trẻ em theo Công ước quốc tế, 15 hành vi nghiêm cấm xâm hại quyền trẻ em, 14 nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và cụ thể hóa hệ thống bảo vệ trẻ em theo ba cấp độ: phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp. Song song với đó, Chính phủ cùng với các bộ, ngành và chính quyền địa phương đã tiến hành rà soát, điều chỉnh và ban hành mới hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật, góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý trong công tác bảo vệ quyền trẻ em.
Hai là, về quyền an sinh xã hội.
Các chính sách bảo vệ và hỗ trợ trẻ em đã được triển khai rộng rãi, hướng đến mọi lứa tuổi nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu và khắc phục những nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Các chính sách này từng bước đáp ứng các nhu cầu cơ bản của trẻ em, góp phần xây dựng một mạng lưới an sinh xã hội vững chắc cho thế hệ tương lai. Các chương trình, chính sách bảo vệ trẻ em được thực hiện hiệu quả, bảo đảm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được trợ giúp kịp thời và tiếp cận ngày càng tốt hơn các dịch vụ xã hội thiết yếu. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp cũng góp phần tạo môi trường ổn định hơn cho gia đình và qua đó, gián tiếp bảo vệ quyền của trẻ em. Tính đến thời điểm hiện tại, bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã giải quyết hơn 615.863 hồ sơ đề nghị cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi2. Các văn bản luật và các chương trình, đề án hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật và các nhóm trẻ em dễ bị tổn thương khác được thực hiện đồng bộ. Điều này bảo đảm rằng, mọi trẻ em, không phân biệt hoàn cảnh, đều được quan tâm và tạo điều kiện để phát triển khỏe mạnh và an toàn.
Ba là, về quyền được chăm sóc y tế.
Các chính sách y tế ngày càng ưu tiên bảo vệ quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em, đặc biệt là trẻ em thuộc nhóm yếu thế. Bên cạnh việc tăng cường năng lực cung ứng dịch vụ y tế chất lượng cao cho toàn dân, các chính sách đã có sự điều chỉnh mạnh mẽ, chú trọng đặc biệt đến nhu cầu y tế của trẻ em nghèo, trẻ em khuyết tật và các nhóm trẻ em dễ bị tổn thương khác. Việc xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới hướng đến mục tiêu nâng cao khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho mọi trẻ em, bảo đảm các em được khám, chữa bệnh kịp thời và hiệu quả.
Bốn là, về quyền được học tập, giáo dục.
Hệ thống các chế độ, chính sách về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ được đồng bộ và toàn diện, hướng đến bảo đảm quyền được học tập bình đẳng và chất lượng cho mọi trẻ em; bắt đầu từ năm học 2025 – 2026, thực hiện miễn toàn bộ học phí cho học sinh từ mầm non đến hết trung học phổ thông công lập trên phạm vi cả nước, học sinh tư thục được hỗ trợ3; phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; tạo cơ hội cho trẻ em được tiếp cận giáo dục bình đẳng, công bằng cho các đối tượng (bao gồm cả nhóm “yếu thế”) đã tương đối đầy đủ, đồng bộ, giúp cho việc thực hiện các chính sách thuận lợi, đúng quy định ở hầu hết các địa phương. Từ tháng 9/2025, Nhà nước hỗ trợ bữa ăn trưa cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở ở các xã biên giới, trong đó ưu tiên các xã biên giới miền núi (đối tượng bao gồm cả học sinh là người dân tộc thiểu số và học sinh là người dân tộc Kinh sinh sống tại các xã biên giới)4.
Ngoài các chế độ, chính sách của Nhà nước có tính ổn định, còn có các đề án, dự án về phát triển giáo dục vùng khó khăn, các tổ chức, cá nhân đóng góp cho giáo dục… Các chính sách tập trung quan tâm tới các đối tượng trẻ em thuộc nhóm người nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn và các đối tượng thiệt thòi khác đã thực sự đi vào cuộc sống, có ý nghĩa xã hội to lớn, góp phần nâng cao dân trí và tạo nền tảng vững chắc cho tương lai của trẻ em ở mọi miền đất nước.
Năm là, về quyền bình đẳng giới.
Hệ thống chính sách liên quan đến bình đẳng giới và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em tiếp tục được hoàn thiện và triển khai đồng bộ thông qua các chiến lược và chương trình trọng điểm, như: Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030; Quyết định số 1790/QĐ-TTg ngày 23/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình truyền thông về bình đẳng giới đến năm 2030; Quyết định số 5914/QĐ-BYT ngày 29/12/2021 của Bộ Y tế về việc ban hành Đề án chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho vị thành niên và thanh niên giai đoạn 2021 – 2025…
Đồng thời, nhiều giải pháp đã được triển khai nhằm chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trước những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 những năm qua. Bên cạnh đó, công tác bảo vệ trẻ em tiếp tục được đẩy mạnh thông qua việc tăng cường các biện pháp phòng ngừa và ứng phó với hành vi xâm hại, bạo lực trên cơ sở giới, tai nạn và thương tích ở trẻ em; hệ thống dịch vụ trợ giúp xã hội được duy trì nhằm bảo đảm khả năng phát hiện sớm, tiếp cận kịp thời và xử lý hiệu quả các vụ việc liên quan đến bạo lực, xâm hại trẻ em. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý, với nhiều quy định mới được bổ sung nhằm tăng cường tính chủ động trong công tác phòng ngừa bạo lực gia đình. Luật quy định việc thiết lập Tổng đài điện thoại quốc gia Bảo vệ trẻ em (111) xác định rõ trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp xã trong việc tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về hành vi bạo lực; đồng thời, đặt ra cơ chế quản lý việc sử dụng âm thanh, hình ảnh liên quan đến các hành vi bạo lực gia đình. Những điều này góp phần tạo ra một môi trường an toàn hơn cho mọi trẻ em, giúp các em được bảo vệ và hỗ trợ tốt hơn trước nguy cơ bạo lực trong gia đình5.
4. Kết luận
Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật trong việc bảo vệ quyền trẻ em thời kỳ đổi mới. Nguyên nhân chủ yếu của các thành tựu này bắt nguồn từ việc không ngừng hoàn thiện khung khổ pháp luật và triển khai hiệu quả các chính sách quốc gia, luôn tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực của luật pháp quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Những kết quả thực tế trong công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và bảo đảm sự phát triển của trẻ em được thể hiện rõ qua các chỉ số phát triển và đánh giá từ các tổ chức uy tín. Đây chính là những minh chứng khách quan và mạnh mẽ, bác bỏ mọi luận điệu sai trái, thiếu căn cứ và xuyên tạc về tình hình bảo đảm quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng tại Việt Nam.
Chú thích:
1. Việt Nam phê chuẩn hai nghị định thư bổ sung Công ước LHQ về quyền trẻ em.https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/vn-phe-chuan-hai-nghi-dinh-thu-bo-sung-cong-uoc-lhq-ve-quyen-tre-em-80575.htm
2. Hơn 616.000 trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ BHYT trực tuyến. https://vnmedia.vn/kinh-te/202402/hon-615000-tre-em-duoi-6-tuoi-duoc-cap-the-bhyt-truc-tuyen-3243e1a,
3. Miễn học phí cho học sinh công lập cả nước, học sinh tư thục được hỗ trợ.https://baochinhphu.vn/mien-hoc-phi-cho-hoc-sinh-cong-lap-ca-nuoc-hoc-sinh-tu-thuc-duoc-ho-tro-102250522094458619.htm
4. Tổng Bí thư: Tiểu học và THCS dạy 2 buổi/ngày, miễn học phí từ năm tới.https://tienphong.vn/tong-bi-thu-tieu-hoc-va-thcs-day-2-buoingay-mien-hoc-phi-tu-nam-toi-post1739999.tpo
5. Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em, đường dây nóng tư vấn và hỗ trợ nạn nhân mua bán người.https://tongdai111.vn/tin/tong-dai-quoc-gia-bao-ve-tre-em-111-tiep-nhan-gan-6-trieu-cuoc-goi-trong-20-nam, cập nhập ngày 16-5-2025
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2007). Chính sách và dịch vụ xã hội đối với các nhóm yếu thế. H. NXB Lao động – Xã hội.
2. Chính phủ (2021). Nghị định số 130/2021/NĐ-CP về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em.
3. Quốc hội (2016). Luật Trẻ em năm 2016.
4. Quốc hội (2019). Luật Giáo dục năm 2019.
5. Quốc hội (2014). Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
6. Trường Đại học luật TP. Hồ Chí Minh (2020). Hệ thống văn bản pháp luật quốc tế về quyền trẻ em. H. NXB Hồng Đức.



