TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy
TS. Phùng Thị Quỳnh Trang
Học viện Phụ nữ Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết đánh giá quá trình thực hiện công tác phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn 2015 – 2025. Kết quả đánh giá cho thấy, Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể về khung pháp lý và một số chỉ tiêu về bình đẳng giới, nhưng kết quả đạt được chưa đồng đều giữa các lĩnh vực và địa phương; nguồn lực thực thi, cơ chế giám sát và hệ thống dữ liệu giới còn hạn chế, trong khi nhiều vấn đề mới nảy sinh trong bối cảnh chuyển đổi số, biến đổi khí hậu và hậu Covid-19 chưa được nghiên cứu đầy đủ. Do đó, bài viết phân tích lý luận và thực tiễn về công tác phụ nữ và bình đẳng giới, từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới trong giai đoạn tới1.
Từ khóa: Công tác phụ nữ; chính sách; bình đẳng giới; tình hình mới; bảo vệ quyền của phụ nữ.
1. Đặt vấn đề
Trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, bình đẳng giới trở thành một trong những chính sách ưu tiên tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Từ Luật Bình đẳng giới năm 2006 đến các chiến lược quốc gia, Nhà nước đã xây dựng hệ thống pháp luật và chương trình can thiệp nhằm thu hẹp khoảng cách giới và thúc đẩy sự tham gia đầy đủ, bình đẳng của phụ nữ trong đời sống chính trị, kinh tế – xã hội.
Giai đoạn 2015 – 2025, đánh dấu những biến động sâu rộng về kinh tế – xã hội, chuyển đổi số và tác động của đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, yêu cầu hội nhập quốc tế kéo theo nhiều vấn đề giới mới phát sinh, như: khoảng cách giới trong kinh tế số, bất bình đẳng trong việc làm và thu nhập, khả năng tiếp cận nguồn lực, bạo lực giới, bất bình đẳng trong công việc chăm sóc không trả công cũng như yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo nữ trong khu vực công và tư. Trong bối cảnh đó, việc tổng quan nghiên cứu về công tác phụ nữ và bình đẳng giới trở thành yêu cầu cấp thiết để nhận diện xu hướng, khoảng trống và những vấn đề ưu tiên cần giải quyết.
2. Khái quát về công tác phụ nữ và bình đẳng giới
2.1. Công tác phụ nữ
Công tác phụ nữ được hiểu là “toàn bộ các hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, xã hội chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ”2 tạo mọi điều kiện để phụ nữ phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từng bước nâng cao địa vị của phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Nói đến công tác phụ nữ là nói đến các hoạt động từ tham mưu, đề xuất tạo cơ chế, chính sách thúc đẩy phụ nữ có cơ hội bộc lộ tiềm năng của bản thân đến các hoạt động thực tiễn kiểm chứng sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của các tầng lớp phụ nữ để tự thay đổi cuộc đời và góp phần tạo nên sự phát triển bền vững cho cộng đồng.
Khái niệm công tác phụ nữ được đề cập trong Nghị quyết số 11/NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhấn mạnh ở Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới. Nghị quyết số 11/NQ-TW cũng chỉ ra: công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Nội dung công tác phụ nữ bao gồm: tuyên truyền giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt của phụ nữ (giáo dục chính trị – tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giáo dục đạo đức và nếp sống, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học – kỹ thuật; tập hợp phụ nữ vào các loại hình tổ chức và hoạt động, như: các đoàn thể chính trị – xã hội (chủ yếu là tham gia vào Hội phụ nữ), các tổ chức xã hội, các hoạt động đa dạng, như: câu lạc bộ, các hoạt động phong trào…; phát huy tiềm năng và vai trò của phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và quốc phòng – an ninh; chăm lo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ: cải thiện đời sống vật chất tinh thần, nâng cao vị trí xã hội cho phụ nữ, phát huy quyền làm chủ tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
2.2. Bình đẳng giới
Ở Việt Nam, vấn đề bình đẳng giới, bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em được đặt ra ngay từ Hiến pháp năm 1946, việc tuyên bố “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9) đã khẳng định với thế giới, phụ nữ Việt Nam bình đẳng với nam giới để hưởng mọi quyền công dân. Điều 24 Hiến pháp năm 1959 nêu rõ: “Phụ nữ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình’’. Điều 55 Hiến pháp năm 1980, tiếp tục khẳng định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Đến Hiến pháp năm 1992, về cơ bản, quyền của phụ nữ kế thừa những quy định tiến bộ của Hiến pháp năm 1980 và được nhấn mạnh thêm: “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ” (Điều 63). Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã có nhiều quy định mang tính đột phá nhằm bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em. Trong đó, phụ nữ được tạo điều kiện để phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
Theo Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”. Có thể hiểu bình đẳng giới là sự bảo đảm mọi người đều được đối xử công bằng, có các cơ hội và quyền lợi tương đương, không phân biệt giới tính. Hiện nay, hệ thống văn bản liên quan đến công tác phụ nữ và bình đẳng giới khá đầy đủ, từ luật pháp quốc gia đến công ước quốc tế, giúp bảo đảm tính khoa học, logic, thuyết phục. Ngoài ra, vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được thể hiện ở Điều lệ Hội năm 2022, Hội có trách nhiệm: tham gia giám sát thực hiện Luật Bình đẳng giới, Luật Lao động, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; kiến nghị chính sách nhằm bảo đảm quyền lợi cho phụ nữ và tổ chức nghiên cứu khoa học phục vụ xây dựng chính sách bình đẳng giới.
Điều 7 Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định các chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới: bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển; bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình; áp dụng những biện pháp thích hợp để xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới; khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới; hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.
3. Thành tựu về công tác phụ nữ và bình đẳng giới trong giai đoạn 2015 -2025
Trong giai đoạn 2015 – 2025, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về công tác phụ nữ và bình đẳng giới, thể hiện qua sự gia tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia chính trị, kinh tế, sự cải thiện về giáo dục, y tế và những thay đổi tích cực trong nhận thức của xã hội về bình đẳng giới. Các thành tựu nổi bật đó cho thấy, sự nỗ lực không ngừng của cả hệ thống chính trị trong việc phát huy vai trò, khơi dậy tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực.
Thứ nhất, hệ thống chính sách, pháp luật tiếp tục được hoàn thiện, nổi bật là Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ về việc ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030, với 6 mục tiêu và 20 chỉ tiêu cụ thể. Báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho thấy, 65 – 70% dự thảo văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2020 – 2023 đã được đánh giá tác động giới3. Đây là bước tiến quan trọng trong thể chế hóa yêu cầu lồng ghép giới theo Luật Bình đẳng giới năm 2006.
Thứ hai, sự tham gia của phụ nữ trong chính trị được nâng cao rõ rệt. Những năm qua, Việt Nam đã đạt tiến bộ đáng kể trong thúc đẩy sự tham gia lãnh đạo của phụ nữ. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XV đạt 30,26%, mức cao nhất trong hơn hai thập kỷ. Ở cấp ủy đảng, tỷ lệ nữ là tỉnh ủy viên tăng từ 11,4% nhiệm kỳ 2015 – 2020 lên 13,3% nhiệm kỳ 2020 – 2025. Trong cơ quan hành pháp, đến năm 2023, có 46,7% các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ có nữ lãnh đạo chủ chốt, ví dụ, như: các vị trí bộ trưởng, thứ trưởng, người đứng đầu các vụ, cục4. Một số bộ, ngành và địa phương đã có nữ lãnh đạo chủ chốt, phản ánh xu hướng mở rộng quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ.
Thứ ba, quyền kinh tế và cơ hội việc làm của phụ nữ được cải thiện. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ duy trì ở mức 62 – 64%, thuộc nhóm cao của thế giới5. Trong giai đoạn 2017 – 2023, hơn 100.000 phụ nữ được hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển kinh doanh thông qua các chương trình của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam6. Tỷ lệ nữ quản lý cấp trung và cấp cao ở Việt Nam đạt khoảng gần 22% theo báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 20237, cũng theo báo cáo của Grant Thornton, năm 2024, phụ nữ chiếm khoảng 33% các vị trí quản lý cấp cao tại các doanh nghiệp quy mô trung bình ở Việt Nam8.
Thứ tư, công tác phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới có chuyển biến tích cực. Mạng lưới cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực giới mở rộng với nhiều mô hình “trung tâm dịch vụ một cửa”. Đường dây nóng quốc gia ghi nhận hơn 21.000 lượt tư vấn trong năm 20229. Các chiến dịch truyền thông quốc gia đóng góp quan trọng trong nâng cao nhận thức cộng đồng về phòng chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em10.
Thứ năm, Tổng cục Thống kê đã cập nhật Bộ chỉ tiêu thống kê giới quốc gia gồm 105 chỉ tiêu và công bố các báo cáo thống kê giới định kỳ11. Một số bộ, ngành đã ứng dụng dữ liệu phân tách theo giới trong xây dựng và giám sát chính sách, góp phần thúc đẩy quản trị dựa trên bằng chứng12.
Thứ sáu, nhận thức xã hội về bình đẳng giới từng bước được cải thiện. Công tác truyền thông về bình đẳng giới tiếp tục được tăng cường với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ trung ương tới địa phương, góp phần nâng cao nhận thức và thay đổi thái độ, hành động của các cấp ủy đảng, chính quyền và Nhân dân về thực hiện bình đẳng giới. Có sự phối hợp tương đối nhịp nhàng giữa các cấp, ngành, các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội trong việc thực hiện bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới, góp phần mở rộng, thu hút các nguồn lực, sáng kiến để thực hiện hiệu quả lĩnh vực công tác này. Với những nỗ lực đó, năm 2023, chỉ số xếp hạng về bình đẳng giới của Việt Nam, xếp thứ 72/146 quốc gia, tăng 11 bậc so với năm 202213. Ngày 09/4/2024, Hội đồng kinh tế xã hội Liên Hợp quốc đã bầu Việt Nam vào Hội đồng Chấp hành Cơ quan Liên Hợp quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women) nhiệm kỳ 2025 – 2027, điều này thể hiện sự ghi nhận và đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với các các chính sách, thành tựu về thúc đẩy bình đẳng giới và nỗ lực hợp tác quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực này; đồng thời, tin tưởng Việt Nam sẽ đóng góp tích cực vào việc điều hành của UN Women trong thời gian tới.
4. Khoảng trống và thách thức từ thực tiễn
Một là, khoảng trống trong khung pháp lý và chính sách. Mặc dù Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương và văn bản luật về bình đẳng giới, khung pháp lý hiện hành vẫn thiếu tính đồng bộ và ràng buộc. Yêu cầu lồng ghép giới chưa trở thành nguyên tắc bắt buộc trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách. Các chỉ tiêu về cán bộ nữ chủ yếu mang tính phấn đấu, thiếu cơ chế trách nhiệm giải trình, giám sát, đánh giá và phân bổ nguồn lực. Điều này dẫn tới khoảng cách giữa mục tiêu và kết quả thực tế còn lớn. Trong các lĩnh vực khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, chính sách vẫn mang tính “trung lập giới”, chưa xác định mục tiêu hoặc chỉ số cụ thể về phụ nữ lãnh đạo, tạo ra khoảng trống chính sách
Hai là, sự tham gia của phụ nữ trong chính trị được nâng lên rõ rệt nhưng chưa bền vững và đang đứng trước những thách thức không nhỏ trong bối cách sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, điều chỉnh cơ cấu các đơn vị hành chính. Những thay đổi mang tính lịch sử như trên tác động không nhỏ tới vai trò của các cơ quan, đơn vị thực hiện chức năng về bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ ở địa phương. Sau sáp nhập tỉnh, thành phố kể từ ngày 01/7/2025 cho thấy, tỷ lệ phụ nữ nắm giữ các chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở cấp tỉnh đều giảm. Tỷ lệ nữ cấp ủy cũng giảm từ 29,2% xuống còn 23,1% ở cấp tỉnh và 24,6% ở cấp xã. Đáng chú ý, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường và Ủy ban Quốc phòng và an ninh chưa có nữ đại biểu đảm nhiệm vị trí lãnh đạo. Trong các lĩnh vực chiến lược, như: lĩnh vực khoa học – công nghệ, số lượng nữ giữ vai trò lãnh đạo cũng rất thấp. Bộ Khoa học – Công nghệ cho đến nay chưa có nữ Bộ trưởng hay Thứ trưởng. Tỷ lệ nữ lãnh đạo cấp vụ, cục trực thuộc Bộ hiện chỉ đạt 19%. Ở cấp địa phương, nữ giám đốc sở Khoa học – Công nghệ chỉ chiếm 14,7%14.
Ba là, mặc dù Việt Nam có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ thuộc nhóm cao trong khu vực, nhưng vẫn tồn tại khoảng cách đáng kể so với nam giới, phản ánh bất bình đẳng trong tham gia kinh tế và chất lượng việc làm. Năm 2023, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam đạt khoảng 75,2%, trong khi nữ chỉ 62,9%15. Dữ liệu quốc tế cũng cho thấy, xu hướng tương tự khi năm 2024, tỷ lệ lao động nữ của Việt Nam là 69,1% so với 78,6% ở nam16.. Không chỉ thấp hơn về mức độ tham gia, phụ nữ còn chịu thiệt thòi về chất lượng việc làm và thu nhập: lao động nữ nhận lương thấp hơn nam khoảng 13%17. Bên cạnh đó, phụ nữ vẫn gánh phần lớn công việc gia đình không được trả công, làm giảm cơ hội tiếp cận việc làm bền vững và hạn chế sự thăng tiến nghề nghiệp.
Bốn là, bạo lực trên cơ sở giới và việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ vẫn chưa được bảo đảm đầy đủ. Bạo lực giới tiếp tục là vấn đề nghiêm trọng và phổ biến, song nhiều trường hợp vẫn chưa được báo cáo, phản ánh sự hạn chế trong tiếp cận dịch vụ hỗ trợ và rào cản về tâm lý – xã hội đối với nạn nhân. Khảo sát quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ năm 2019 cho thấy, 62,9% phụ nữ Việt Nam từng trải qua ít nhất một hình thức bạo lực do chồng hoặc bạn đời gây ra trong đời. Đáng chú ý, chỉ khoảng 4% nạn nhân tìm đến cơ quan chính quyền hoặc dịch vụ hỗ trợ chính thức cho thấy, mức độ báo cáo còn rất thấp18. Bên cạnh đó, hệ thống dịch vụ hỗ trợ, như: nhà tạm lánh, tư vấn tâm lý, hỗ trợ pháp lý vẫn chưa được phủ khắp và chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng. Thực tế này đặt ra yêu cầu tăng cường thực thi pháp luật, mở rộng dịch vụ hỗ trợ và thúc đẩy môi trường an toàn hơn cho phụ nữ và trẻ em gái.
Năm là, các rào cản văn hóa và định kiến giới vẫn tồn tại, cản trở tiến trình bình đẳng giới thực chất. Những quan niệm truyền thống về vai trò của nam và nữ trong gia đình và xã hội, đặc biệt là kỳ vọng phụ nữ gánh vác phần lớn công việc chăm sóc và nội trợ vẫn phổ biến và ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tham gia của phụ nữ trong thị trường lao động và các vị trí lãnh đạo. Theo Điều tra quốc gia về phụ nữ và nam giới năm 2023, phụ nữ Việt Nam dành trung bình số thời gian làm công việc không được trả công nhiều gấp 2 lần nam giới19. Đồng thời, định kiến về khả năng lãnh đạo của phụ nữ vẫn là rào cản vô hình khiến tỷ lệ nữ ở các vị trí quản lý cấp cao và hoạch định chính sách chưa tương xứng với năng lực và mức độ đóng góp.
Sáu là, tình trạng thiếu dữ liệu thống kê theo giới tiếp tục là thách thức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạch định chính sách. Mặc dù Việt Nam đã triển khai Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới, việc thu thập, cập nhật và chia sẻ dữ liệu giới trong nhiều cơ quan quản lý nhà nước vẫn chưa đồng bộ. Đặc biệt, các lĩnh vực mới, như: khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số còn thiếu nghiêm trọng dữ liệu phân tách theo giới20. Việc hạn chế tiếp cận và thiếu thông tin đầy đủ khiến quá trình phân tích, đánh giá tác động chính sách và thiết kế giải pháp can thiệp gặp nhiều khó khăn. Đây là khoảng trống cần được khắc phục để bảo đảm các chính sách bình đẳng giới dựa trên bằng chứng và phản ánh đúng nhu cầu của cả nam và nữ.
5. Giải pháp tăng cường công tác phụ nữ và bình đẳng giới
Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý và chính sách về bình đẳng giới theo hướng đồng bộ, thống nhất và có tính ràng buộc cao. Cần đưa yêu cầu lồng ghép giới trở thành nguyên tắc bắt buộc trong quy trình xây dựng, thực thi và đánh giá chính sách. Các chỉ tiêu về cán bộ nữ cần được thiết kế theo hướng có trách nhiệm giải trình, gắn với cơ chế giám sát độc lập và phân bổ nguồn lực phù hợp. Nếu không có những thay đổi căn bản trong công tác tổ chức cán bộ từ trung ương và địa phương, các chỉ tiêu đã nêu tại Nghị quyết số 11-NQ/TW và Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới sẽ khó có thể đạt được. Đặc biệt, trong các lĩnh vực mũi nhọn, như: khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cần bổ sung mục tiêu, chỉ số cụ thể về tỷ lệ nữ lãnh đạo, phụ nữ tham gia nghiên cứu.
Thứ hai, tăng cường các biện pháp bảo đảm sự tham gia bền vững của phụ nữ trong bộ máy chính trị – hành chính. Trước bối cảnh sắp xếp đơn vị hành chính và tinh gọn tổ chức bộ máy, cần xây dựng các cơ chế bảo vệ và duy trì tỷ lệ nữ ở các vị trí lãnh đạo, quản lý; rà soát, điều chỉnh quy hoạch cán bộ, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới trong bổ nhiệm, đề bạt. Các cơ quan làm công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ cần được củng cố vai trò và nguồn lực nhằm giảm nguy cơ tỷ lệ nữ lãnh đạo suy giảm sau sáp nhập.
Thứ ba, thúc đẩy bình đẳng giới trong kinh tế – lao động bằng các giải pháp toàn diện. Cần tăng cường chính sách tạo việc làm bền vững cho phụ nữ, hỗ trợ họ tham gia các ngành, nghề có thu nhập cao; đồng thời, khắc phục chênh lệch tiền lương giữa nam và nữ. Nhà nước cần phát triển hệ thống dịch vụ chăm sóc trẻ em và người phụ thuộc với chi phí phù hợp, giúp giảm gánh nặng lao động không lương cho phụ nữ, qua đó, mở rộng cơ hội thăng tiến và tham gia thị trường lao động chính thức.
Thứ tư, tăng cường phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Cần hoàn thiện hệ thống thể chế thực thi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi), mở rộng mạng lưới nhà tạm lánh, tư vấn tâm lý, hỗ trợ pháp lý và đường dây nóng tại các địa phương. Đồng thời, nâng cao năng lực cho cán bộ tuyến cơ sở, đẩy mạnh truyền thông thay đổi hành vi và khuyến khích nạn nhân lên tiếng. Việc cải thiện cơ chế thu thập dữ liệu, báo cáo và xử lý vụ việc là điều kiện then chốt nhằm giảm tình trạng bạo lực nhưng không được ghi nhận.
Thứ năm, thúc đẩy thay đổi chuẩn mực văn hóa và xóa bỏ định kiến giới. Cần triển khai mạnh mẽ các chương trình truyền thông, giáo dục cộng đồng nhằm thay đổi nhận thức về vai trò giới, đặc biệt về phân công lao động gia đình và năng lực lãnh đạo của phụ nữ. Nhà nước và các tổ chức xã hội cần thúc đẩy các mô hình cha mẹ chia sẻ trách nhiệm chăm sóc, khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các chính sách thân thiện với gia đình và không phân biệt giới trong tuyển dụng, thăng tiến.
Thứ sáu, phát triển hệ thống dữ liệu giới có chất lượng đóng vai trò nền tảng cho hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng. Việc tăng cường thu thập, phân tích và sử dụng dữ liệu phân tách theo giới trong các lĩnh vực sẽ giúp các cơ quan quản lý đánh giá chính xác tình trạng bất bình đẳng và thiết kế giải pháp phù hợp.
6. Kết luận
Nhìn chung, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc thúc đẩy bình đẳng giới, nâng cao vai trò và vị thế của phụ nữ, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Mặc dù có nhiều tiến bộ, các mục tiêu về bình đẳng giới vẫn chưa hoàn thành toàn bộ, và còn nhiều thách thức cần giải quyết trong giai đoạn tiếp theo. Để chuyển từ cam kết chính sách sang kết quả thực chất, cần triển khai các giải pháp mang tính hệ thống. Trong đó, ưu tiên hoàn thiện và tăng tính ràng buộc của khung pháp lý; thiết lập cơ chế trách nhiệm giải trình đối với chỉ tiêu cán bộ nữ; bảo đảm sự tham gia ổn định của phụ nữ trong các cơ quan quyền lực; áp dụng các biện pháp kinh tế nhằm thu hẹp chênh lệch việc làm và thu nhập; nâng cao hiệu quả phòng ngừa, hỗ trợ và xử lý bạo lực giới; đẩy mạnh truyền thông nhằm thay đổi chuẩn mực xã hội; đồng thời xây dựng hệ thống dữ liệu giới đầy đủ, cập nhật để phục vụ hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng.
Chú thích:
1. Nội dung bài viết thuộc đề tài cấp bộ “Tổng quan nghiên cứu về công tác phụ nữ và bình đẳng giới giai đoạn 2015-2025, xây dựng bộ số liệu phục vụ công tác chỉ đạo, định hướng nhiệm kỳ 2026 – 2031 của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam”. Mã số HPN.BO.04/25.
2. Học viện Phụ nữ Việt Nam (2007). Tập bài giảng Nhập môn công tác phụ nữ. H. NXB Phụ nữ.
3. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2023). Báo cáo về tình hình thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 -2023.
4 , 15, 19. Tổng cục Thống kê (2024). Thông tin thống kê giới tại Việt Nam năm 2023. H. NXB Thống kê.
5. World Bank/Gender Data Portal (2024). Vietnam – Gender Data Portal.
6. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2023). Báo cáo chương trình hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2023.
7. World Bank (2023). Viet Nam gender data landscape.
8. Grant Thornton. (2023). Women in Business 2023: The push for parity. Grant Thornton International Ltd.
9. UNFPA & Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2022). Báo cáo hệ thống đường dây nóng và mô hình hỗ trợ nạn nhân bạo lực giới năm 2022.
10. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2022). Báo cáo Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới năm 2022.
11. Tổng cục Thống kê (2021). Bộ chỉ tiêu thống kê giới quốc gia. H. NXB Thống kê.
12. UN Women (2023). Survey Report on Gender Attitudes and Perception of Gender Equality in Viet Nam.
13. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) (2023). Báo cáo khoảng cách giới toàn cầu.
14. UDDP (2025). Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào vị trí lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị và bộ máy chính quyền các cấp.
16. World Bank (2024). Gender Data Portal: Vietnam. https://genderdata.worldbank.org/en/economies/vietnam
17. ILO (2021). Giới và thị trường lao động ở Việt Nam – Báo cáo phân tích dựa trên số liệu Điều tra Lao động – Việc làm.
18. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội & UNFPA (2019). Khảo sát quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019
20. Tổng cục Thống kê (2023). Thông tin thống kê giới tại Việt Nam năm 2022. H. NXB Thống kê.



