Đăng ký kết hôn đối với hôn nhân xuyên biên giới: thực trạng và giải pháp 

ThS. Lê Thị Hồng Hải
Viện Nghiên cứu Con người, Gia đình và Giới
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Một trong những vấn đề cần quan tâm tại các vùng biên là hiện tượng hôn nhân xuyên biên giới: các cuộc kết hôn của cư dân hai bên biên giới thuộc hai nước khác nhau. Xét về địa lý có khi chỉ là giữa hai làng nhưng xét về mặt pháp lý thì đây là các cuộc hôn nhân giữa hai người có hai quốc tịch khác nhau. Vì vậy phải tuân thủ theo những quy định của luật pháp hai nước về hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Bài viết tìm hiểu thực trạng đăng ký kết hôn của các cuộc hôn nhân xuyên biên giới ở Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra những nguyên nhân khiến tỷ lệ đăng ký kết hôn thấp. Từ đó, gợi ra một số giải pháp cho công tác quản lý xã hội nói chung và quản lý nhà nước về đăng ký kết hôn nói riêng để bảo đảm an ninh con người ở vùng các biên giới của Việt Nam hiện nay.

Từ khóa: Hôn nhân xuyên biên giới; đăng ký kết hôn; quản lý xã hội, quản lý hôn nhân; an ninh con người vùng biên giới.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hôn nhân xuyên biên giới trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến, phản ánh sự dịch chuyển mạnh mẽ của dân cư, lao động và giao lưu văn hóa giữa các quốc gia. Tuy nhiên, cùng với những cơ hội mở rộng không gian lựa chọn bạn đời và thúc đẩy giao lưu nhân văn, hôn nhân có yếu tố nước ngoài cũng đặt ra nhiều thách thức cho quản lý nhà nước, đặc biệt trong hoạt động đăng ký kết hôn. Thực tiễn cho thấy các vấn nạn như môi giới hôn nhân, kết hôn vì mục đích vụ lợi, bạo lực gia đình, xung đột pháp lý và rủi ro mua bán người đang làm gia tăng tính phức tạp của loại hình hôn nhân này. 

Do đó, yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam không chỉ là hoàn thiện cơ chế đăng ký kết hôn nhằm bảo đảm tính hợp pháp, minh bạch và tự nguyện của các chủ thể tham gia mà còn là xây dựng một hệ thống quản lý đủ hiệu lực để phòng ngừa rủi ro, bảo vệ quyền con người và đáp ứng các chuẩn mực của pháp luật quốc tế trong thời đại hội nhập sâu rộng. Quản lý đăng ký kết hôn xuyên biên giới ở Việt Nam đòi hỏi tiếp cận đa chiều, nhân văn, dựa trên pháp luật, bằng pháp luật, một mặt vừa bảo vệ quyền con người, quyền công dân, mặt kháctôn trọng quyền tự do kết hôn; đồng thời chủ động hội nhập pháp luật quốc tế, phòng ngừa rủi ro xâm phạm quyền con người, quyền công dân.

Một trong những vấn đề cần quan tâm tại các vùng biên là hiện tượng hôn nhân xuyên biên giới: các cuộc kết hôn của cư dân hai bên biên giới thuộc hai nước khác nhau. Dưới góc nhìn nhân học, các cuộc hôn nhân ở vùng biên giới được diễn ra là sự tất yếu bởi vùng văn hóa tộc người bao trùm lên vùng biên giới và theo đó, đường biên giới chỉ là sự chia cắt về mặt hành chính. Khi mà nền văn hóa tộc người rất khó bị chia cắt bởi đường biên giới quốc gia thì các cuộc hôn nhân và các hoạt động thăm thân vẫn diễn ra thường xuyên trong đời sống sinh hoạt thường ngày1. Xét về địa lý có khi chỉ là làng nọ với làng kia, nhưng xét về mặt pháp lý thì đây lại là các cuộc hôn nhân giữa hai người có hai quốc tịch khác nhau, vì vậy, phải tuân thủ theo những quy định của luật pháp hai nước về hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Đây cũng là một trong những khó khăn đối với cư dân vùng biên. Họ vừa sống xa trung tâm, ít chịu ảnh hưởng của luật pháp; mặt khác, họ thường là người dân tộc ít người, sống tại những vùng sâu, vùng xa, khó đi lại nên việc thực hiện đúng các quy định của luật pháp đối với họ là vô cùng khó khăn: không hiểu pháp luật, hạn chế về ngôn ngữ, nhận thức, hạn chế về tài chính, khả năng di chuyển… Hơn nữa, các cuộc hôn nhân không được khai báo, đăng ký sẽ đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước, đến an ninh – chính trị vùng biên giới, đến các vấn đề xã hội nảy sinh ngày càng cấp bách.

2. Thực trạng đăng ký kết hôn đối với hôn nhân xuyên biên giới

Những năm gần đây, xu thế toàn cầu hóa ngày càng phát triển. Cùng với sự phát triển kinh tế, các giao lưu về chính trị, khoa học, văn hóa ngày càng được mở rộng. Hiện tượng di cư, di cư hôn nhân không chỉ diễn ra giữa các vùng miền trong một quốc gia mà nó diễn ra giữa các quốc gia trong khu vực và trên toàn cầu2.Phụ nữ Việt Nam hiện nay đã có mặt ở nhiều quốc gia, trong đó có nhiều người đã định cư ở nước ngoài thông qua con đường kết hôn. Theo Turner đã đưa ra ý kiến rằng, di cư lao động và hôn nhân xuyên biên giới ở các vùng biên giới giữa Việt Nam – Lào, Việt Nam – Tây Nam Trung Quốc cả hợp pháp và bất hợp pháp, đang có một xu hướng ngày càng gia tăng3. Theo Báo cáo quốc gia về đăng ký và thống kê hộ tịch giai đoạn 2021 -2024 của Cục Thống kê (Bộ Tài chính) công bố ngày 25/4/2025, số lượng hôn nhân có yếu tố nước ngoài tăng theo thời gian. Năm 2021, cả nước chỉ có hơn 2 nghìn cuộc kết hôn có yếu tố nước ngoài, chiếm khoảng 0,5% tổng số cuộc kết hôn trong cả nước. Năm 2022, số cuộc kết hôn có yếu tố nước ngoài là gần 14 nghìn cuộc, chiếm tỷ trọng 1,9%. Con số này năm 2023 tăng lên 19 nghìn cuộc, chiếm tỷ trọng 2,8%4.

Đăng ký kết hôn của các trường hợp hôn nhân xuyên biên giới, theo kết quả một nghiên cứu cấp nhà nước, có tỷ lệ rất thấp, chưa đến 10% trường hợp ghi nhận có đăng ký kết hôn đối với các cuộc hôn nhân xuyên biên giới nói chung và chưa đến 5% đối với các cuộc hôn nhân xuyên biên giới được tìm hiểu sâu. Khi tìm hiểu thông tin về người có hôn nhân xuyên biên giới (tìm hiểu qua người thân: cha, mẹ, anh,chị, em ruột của người đó), một kết quả nghiên cứu khác cho thấy, có hơn 227 người có hôn nhân xuyên biên giới, đều là nữ. Trong số đó, chỉ có 24 người có đăng ký kết hôn5. Cục Lãnh sự Bộ ngoại giao cũng đã nhận định: “Tại các tỉnh biên giới, nhiều trường hợp kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam và người nước ngoài không được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai nước”6.

Dưới góc nhìn văn hóa – xã hội thì hôn nhân xuyên biên giới trong mấy thập niên gần đây luôn có sự gia tăng bởi giữa các tộc người ở hai bên vùng biên vốn đã có quan hệ lịch sử, họ hàng, quen biết, thậm chí quan hệ kinh tế do giao thương đã ít nhiều gắn bó, bền chặt khiến cho các mối quan hệ xã hội được mở rộng7. Sự tương đồng về mặt văn hóa hai bên biên giới và mối quan hệ lịch sử lâu đời khiến cho nam nữ không cảm thấy có khoảng cách về lãnh thổ, thậm chí các tục lệ kết hôn nội tộc khiến cho các cuộc hôn nhân xuyên biên giới lại diễn ra ngày càng nhiều hơn8. Các phương tiện thông tin đại chúng Trung Quốc cũng ghi nhận tình trạng kết hôn không đăng ký mà chỉ theo nghi lễ truyền thống giữa phụ nữ Việt Nam và nam giới Trung Quốc ngày càng gia tăng9.

Xét theo giới tính, nam giới có tỷ lệ đăng ký kết hôn cao hơn nữ giới ở vùng biên giới Việt Lào10. Có thể lý giải điều này là do những trường hợp nam giới lấy vợ xuyên biên giới thường định cư tại Việt Nam hoặc tại Lào, nơi mà việc tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn dễ dàng hơn. Việt Nam và Lào đã có “Thỏa thuận giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về việc giải quyết vấn đề người di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới hai nước (08/7/2013)”.

Cũng có sự khác biệt nhất định về đăng ký kết hôn của các cặp hôn nhân xuyên biên giới theo địa bàn,như: Quảng Ninh và Nghệ An có tỷ lệ đăng ký kết hôn cao nhất (40,0%). Tỷ lệ đăng ký kết hôn ở Lạng Sơn là 12,5% và ở Cao Bằng là 5,6%11. Khi cô dâu và chú rể là người cùng dân tộc, coi nhau như người trong dòng họ nên việc thực hiện đăng ký kết hôn là không quá quan trọng và cần thiết. Vì từ trước tới nay, nhiều đời ông bà cha mẹ họ, những người thuộc thế hệ trước vẫn về chung sống với nhau như vợ chồng mà không cần đăng ký kết hôn. Đối với các dân tộc thiểu số vùng biên giới Việt Nam nói chung và vùng biên giới Việt Nam – Trung Quốc nói riêng, yếu tố phong tục tập quán trong hôn nhân luôn được đề cao12. Những tập quán đó có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát của quản lý nhà nước về mặt lãnh thổ. Ranh giới địa lý thường không mạnh bằng biên giới về xã hội và ý thức khi các cộng đồng tương tác với nhau.

Nguyên nhân của việc không đăng ký kết hôn này là do còn có nhiều yêu cầu về quy trình, nhiều loại giấy tờ, các thủ tục pháp lý… đòi hỏi phải nhiều lần đi lại. Điều này là gây khó khăn đối với nhưng người dân vùng biên giới xa xôi, hẻo lánh. Nơi người dân có dân trí thấp, trình độ học vấn không có, gần như là không biết chữ và không nói được tiếng Việt. 

Lý do các cuộc hôn nhân xuyên biên giới không đăng ký kết hôn được đề cập nhiều nhất là những khó khăn liên quan đến điều kiện cá nhân và điều kiện pháp lý của cá nhân, như: giấy tờ, căn cước công dân, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu,… chưa ly hôn ở Việt Nam, trốn sang Trung Quốc làm việc… Ngoài ra, còn do hạn chế về năng lực, trình độ để có thể đi làm thủ tục đăng ký kết hôn, đặc biệt là hôn nhân xuyên biên giới với thủ tục phức tạp hơn rất nhiều: không biết nói tiếng Kinh, không biết đọc, biết viết, không biết đi xe, không biết đường đi lại. Thậm chí ngay cả đối với các cuộc hôn nhân trong nội địa ở những vùng sâu vùng xa, vùng giáp biên giới cũng có tỷ lệ đăng ký kết hôn không cao.

Thủ tục đăng ký kết hôn đối với hôn nhân xuyên biên giới khá nhiều thủ tục, qua nhiều cấp và thực sự thách thức đối với người dân nơi vùng biên, những người có nhiều hạn chế về điều kiện nội lực cũng như ngoại lực. Điều này khiến cho những người có hôn nhân xuyên biên giới ở vùng biên, có thể nói là không thể thực hiện được. Và đây là một trong những lý do chính khiến tỷ lệ đăng ký kết hôn của các cuộc hôn nhân xuyên biên giới thấp như hiện nay.

Liên quan đến nhận thức, chính bản thân người dân, những gia đình có người thân có hôn nhân xuyên biên giới cũng cho rằng việc đăng ký kết hôn là không cần thiết và nó cũng không ảnh hưởng quá nhiều đến cuộc sống của họ. Thậm chí còn cho rằng, không đăng ký kết hôn còn thuận tiện cho việc giải quyết hôn nhân khi cuộc sống không hạnh phúc.

Một điểm đáng quan tâm liên quan đến nhận thức của người dân còn hạn chế khi đề cập đến lý do chính không đăng ký kết hôn của các cuộc hôn nhân xuyên biên giới là vì chính quyền Việt Nam không khuyến khích lấy vợ/chồng Trung Quốc, thậm chí có ý kiến cho rằng việc này bị ngăn cấm không chỉ ở phía Việt Nam mà cả từ phía Trung Quốc. Điều này khiến cho một số trường hợp lấy chồng Trung Quốc không dám khai báo mà họ “cưới chui”.

3. Giải pháp quản lý nhà nước trong việc đăng ký kết hôn đối với hôn nhân xuyên biên giới

Việc thực hiện đăng ký kết hôn đối với hôn nhân xuyên biên giới ở Việt Nam hiện không phải là phổ biến. Vẫn còn phần lớn trường hợp đi lấy vợ, lấy chồng xuyên biên giới mà không làm bất kỳ một thủ tục nào. Không đăng ký kết hôn khiến thân phận của người có hôn nhân xuyên biên giới bấp bênh, không chắc chắn. Họ có thể bị đuổi đi, đuổi về nước bất cứ lúc nào, thậm chí có thể bị bán đi bán lại. Chính vì vậy, Việt Nam cần triển khai nhóm giải pháp tổng thể sau: 

Thứ nhất, nâng cao nhận thức.

Để cải thiện được tình hình trong việc thực hiện đăng ký kết hôn đối với các cuộc hôn nhân xuyên biên giới, điều quan trọng trước tiên là cần nâng cao nhận thức, hiểu biết cho người dân về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, về những cái được và mất của các cuộc hôn nhân không đăng ký kết hôn, từ đó họ thấy tầm quan trọng của việc đăng ký kết hôn trước khi kết hôn và tự giác thực hiện. 

Do hạn chế của người dân vùng biên là trình độ dân trí thấp, không thông thạo tiếng phổ thông (tiếng Việt). Nên các tài liệu hướng dẫn cũng như các biểu mẫu cần có 2 thứ tiếng: tiếng Việt và tiếng dân tộc địa phương. Vì vậy, cần xây dựng cơ chế hỗ trợ – bảo vệ toàn diện trong hôn nhân xuyên biên giới, bao gồm tư vấn tiền hôn nhân (pháp luật, văn hóa, kỹ năng và nguy cơ rủi ro), thiết lập hệ thống tiếp nhận – hỗ trợ nạn nhân và bảo hộ pháp lý cho công dân, tăng cường quản lý dữ liệu hộ tịch – cư trú bằng công nghệ số nhằm phát hiện vi phạm, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, nghiên cứu chuyên sâu và truyền thông cộng đồng để bảo đảm mọi quan hệ hôn nhân xuyên biên giới diễn ra an toàn, minh bạch, tự nguyện và nhân văn.

Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế phối hợp quốc tế.

Trên cơ sở rà soát và bổ sung Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Hộ tịch, Luật Xuất nhập cảnh theo hướng làm rõ: thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài; cơ chế xác minh nhân thân, năng lực hành vi; tiêu chuẩn đối với tổ chức môi giới hôn nhân hợp pháp. Đồng thời, tăng cường ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp, thỏa thuận song phương với các nước có đường biên giới với Việt Nam, các nước có nhiều công dân kết hôn với người Việt (Lào, Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc)…), nhằm: thừa nhận giấy tờ hộ tịch; bảo vệ quyền nuôi con; xử lý bạo lực gia đình hoặc tranh chấp tài sản xuyên biên giới. Đặc biệt, tăng cường vai trò của cơ quan đại diện ngoại giao trong bảo hộ công dân, tư vấn pháp lý và hỗ trợ nạn nhân.

Về mặt thủ tục pháp lý, có thể tính đến đặc thù vùng giáp biên giới mà lược bớt một số thủ tục hoặc phân cấp có thẩm quyền thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn ở xã, phường. Do việc giao lưu qua lại giữa hai bên và đôi khi là quan hệ đồng tộc nên các quan hệ khá gần gũi và việc có những cuộc hôn nhân xuyên biên giới là khó tránh khỏi. Thực tế, theo phản ánh của nhiều người dân ở địa bàn điều tra, họ đi chợ ở bên kia biên giới còn thuận tiện hơn, gần hơn so với đi chợ trong nội địa. Để giúp cho công dân có được những quyền lợi nhất định, tránh những rủi ro, cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ về thủ tục, bảo đảm quyền công dân, quyền con người cho họ.

Cần có hướng dẫn chi tiết, cụ thể tới từng cán bộ xã, thôn về các thủ tục đăng ký kết hôn. Từ đó, cán bộ phổ biến đến từng người dân; có chương trình tập huấn riêng cho những cán bộ địa phương của các xã giáp biên giới; đồng thời đưa ra danh sách những xã giáp biên giới và có những chính sách đặc thù hỗ trợ. Thiết nghĩ, cần điều động một cán bộ cấp tỉnh cắm chốt hoặc phụ trách với từng xã hoặc từng bản ở vùng biên giới. Mỗi xã cần có một cán bộ tư pháp tỉnh chịu trách nhiệm hỗ trợ, giúp đỡ, hướng dẫn trong việc thực hiện các thủ tục đăng ký kết hôn cho người dân khi họ có hôn nhân xuyên biên giới.

Thứ ba, về mặt quản lý phát triển kinh tế – xã hội.

Do sự chênh lệch về điều kiện sống, về kinh tế giữa hai vùng biên giới dẫn đến hiện tượng người dân Việt Nam di chuyển nhiều sang nước bạn để mong có cuộc sống tốt đẹp hơn. Điều này dẫn đến nhiều trường hợp bất chấp những rủi ro có thể xảy đến mà chỉ đơn giản để đạt được mục đích về kinh tế, cải thiện cuộc sống. Khi đó sẽ có nhiều cơ hội nảy sinh tình cảm và có những cuộc hôn nhân xuyên biên giới. Cần có những chính sách ưu tiên phát triển kinh tế xã hội cho các xã vùng biên, nâng cao đời sống cho người dân, nâng cao hiểu biết, nhận thức cho người dân. 

Đặc biệt, đặt trọng tâm công tác quản lý hoạt động môi giới và phòng, chống mua bán người, theo đó, đòi hỏi luật hóa và cấp phép cho hoạt động môi giới hôn nhân, đặt ra: tiêu chuẩn đạo đức – nghề nghiệp; trách nhiệm cung cấp thông tin trung thực; xử phạt nghiêm môi giới bất hợp pháp. Đồng thời, tăng cường điều tra liên ngành giữa công an – biên phòng – lao động để phát hiện đường dây đưa người ra nước ngoài bằng hình thức kết hôn giả; xây dựng cơ chế giám sát cộng đồng tại địa phương, nhất là vùng biên giới có tỷ lệ kết hôn xuyên biên giới cao.

4. Kết luận

Trong bối cảnh hiện nay, hôn nhân xuyên biên giới đang bị tác động bởi nhiều yếu tố. Nhiều vấn đề xã hội cũng đang nảy sinh bởi các cuộc hôn nhân xuyên biên giới như việc quản lý hôn nhân, vấn đề hỗ trợ pháp lý, vấn đề tội phạm buôn bán người… Ngoài ra, hôn nhân xuyên biên giới cũng đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết nhất là đối với những trường hợp quay trở về Việt Nam cũng với những người con không có đăng ký khai sinh, không công ăn việc làm, không giấy tờ tùy thân. Những trường hợp không đăng ký kết hôn đi về thăm thân cùng với người chồng ngoại quốc cũng là một vấn đề đáng quan tâm; đặc biệt về an ninh biên giới. Chính vì vậy, để cải thiện tình hình và bảo vệ quyền lợi cho người dân cũng như quyền lợi của nhà nước, bảo đảm an ninh chính trị cho vùng biên, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp và là trách nhiệm từ Chính phủ đến các cấp và với từng người dân, nhất là người dân ở vùng biên giới. 

Quản lý hôn nhân xuyên biên giới đòi hỏi một cách tiếp cận tổng hợp, nhân văn và dựa trên pháp quyền, trong đó việc tư vấn – giáo dục tiền hôn nhân, bảo vệ quyền con người, ứng dụng dữ liệu số và mở rộng hợp tác quốc tế giữ vai trò then chốt. Khi các giải pháp này được triển khai đồng bộ, Việt Nam không chỉ phòng ngừa hiệu quả các rủi ro như môi giới bất hợp pháp, bạo lực gia đình hay kết hôn giả mà còn tạo nền tảng để các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được hình thành và phát triển một cách an toàn, tự nguyện và phù hợp với chuẩn mực pháp lý – văn hóa của quốc gia.

Chú thích:

1. Đặng Thị Hoa, Nguyễn Hà Đông (2015). Hôn nhân xuyên biên giới ở các tỉnh miền núi Việt Nam hiện nay. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93), tr. 49 – 57.

2, 6. Cục Lãnh sự (Bộ ngoại giao) (2011). Báo cáo tổng quan về tình hình di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài. IOM, UE. 2011.

3. Turner, S. (2010)Challenges and dilemmas: fieldwork with upland minorities in socialist Vietnam, Laos and southwest China. Asia Pacific Viewpoint, 51(2), pp.121-134.

4. Cục Thống kê (Bộ Tài chính) (2025). Báo cáo quốc gia về đăng ký và thống kê hộ tịch giai đoạn 2021  2024. H. NXB Thống kê.

5, 9, 11, 12. Đặng Thị Hoa (chủ biên) (2017). Hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xã hội (sách chuyên khảo). H. NXB Khoa học xã hội.

7. Nguyễn Thị Thanh Tâm và cộng sự (2011). Một số vấn đề xã hội của phụ nữ nông thôn lấy chồng và lao động ở nước ngoài. Báo cáo đề tài cấp Bộ.

8. Lianling Su. (2013). Cross-border marriage migration of Vietnamese women to China. Master thesis, Kansas State University.

10, 13. Hoàng Phương Mai (2021). Hôn nhân xuyên biên giới ở các dân tộc thiểu số vùng biên giới Việt Nam – Trung Quốc dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu nước ngoài. Tạp chí Dân tộc học, số 2/2021, tr. 95 -103.