Giải pháp tạo việc làm bền vững cho người lao động vùng đồng bằng sông Cửu Long 

ThS. Trần Thị Phương Huỳnh
Học viện Chính trị khu vực IV

(Quanlynhanuoc.vn) – Tạo việc làm bền vững cho người lao động chính là quá trình tạo ra những tiền đề, điều kiện để người lao động có thể sử dụng sức lao động của mình tác động vào đối tượng lao động để tăng thu nhập cho người lao động, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương. Bài viết chỉ ra thực trạng việc làm của người lao động ở đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian qua; từ đó, đề xuất giải pháp nhằm tạo việc làm bền vững cho người lao động ở vùng trong giai đoạn tiếp theo.

Từ khóa: Người lao động; tạo việc làm; thị trường lao động; đồng bằng sông Cửu Long.

1. Đặt vấn đề

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường phát triển của mọi quốc gia trên thế giới. Thực tế cho thấy, con đường này chính là nhân tố quyết định sự thay đổi căn bản phương thức sản xuất, chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp truyền thống, tiểu nông sang phương thức sản xuất mới hiện đại. Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, diện mạo xã hội có sự thay đổi theo hướng công nghiệp và hiện đại. Chính quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tạo nên những bước đột phá mới cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Có thể nói, việc làm cho người lao động là một vấn đề có tính toàn cầu, có ý nghĩa quan trọng, quyết định đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của người lao động để bảo đảm cuộc sống và phát triển toàn diện.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động, Hiến phápnăm 2025 quy định: “Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động” (khoản 1 Điều 57).  Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Dạy nghề, Luật Việc làm,… và các văn bản hướng dẫn thi hành bước đầu điều chỉnh một số nội dung trong quan hệ xã hội về việc làm. Các quy định này bước đầu tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ xã hội về việc làm phát triển theo các quy luật của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tạo việc làm cho người lao động là tổng thể những chủ trương, đường lối, chính sách của hệ thống chính trị và nỗ lực của bản thân người lao động nhằm thiết lập một môi trường việc làm thuận lợi, có mức thu nhập tương xứng và cơ hội phát triển phù hợp với năng lực, trình độ và khả năng cống hiến trong nghề nghiệp của người lao động. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động chính là quá trình sử dụng hợp lý, phát huy hiệu quả vai trò của nhân lực có trình độ chuyên môn, tay nghề gắn liền với phát triển kinh tế, bảo đảm ổn định chính trị – xã hội, tạo đà cho phát triển toàn diện đất nước.

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất nằm ở phía Tây Nam bộ, cực Nam của Tổ quốc ta, được hình thành cách đây trong khoảng ba thế kỷ, do phù sa của con sông Cửu Long bồi đắp. Hiện nay, đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 5 tỉnh: An Giang, Cà Mau, Đồng Tháp, Tây Ninh, Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ. So với các vùng kinh tế trọng điểm khác, đồng bằng sông Cửu Long có vị trí kinh tế đặc biệt quan trọng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng đồng bằng sông Cửu Long về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Nghị quyết yêu cầu đồng bằng sông Cửu Long phải phát triển nhanh và bền vững, phù hợp với vị trí, vai trò chiến lược của vùng, đồng thời coi đây là nhiệm vụ xuyên suốt, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của mỗi địa phương trong vùng. 

Những năm  qua, cùng với cả nước, các cấp ủy, chính quyền các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, lực lượng lao động chưa qua đào tạo nghề vẫn chiếm tỷ lệ khá cao, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước và khu vực, chưa đáp ứng nhu cầu của xã hội. Cơ sở vật chất, trang thiết bị của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của doanh nghiệp… do đó, việc đưa ra giải pháp phù hợp nhằm tạo việc làm bền vững cho người lao động ở đồng bằng sông Cửu Long là thực sự cần thiết.

2. Kết quả tạo việc làm cho người lao động ở đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua

Theo số liệu Tổng cục Thống kế năm 2024, lao động có việc làm là 51,9 triệu người, tăng 585,1 nghìn người (tương ứng tăng 1,1%) so với năm 2023. Trong đó, khu vực thành thị là 19,9 triệu người, tăng 831,2 nghìn người so với năm trước; khu vực nông thôn là 32,0 triệu người, giảm 246,1 nghìn người. Xét theo khu vực kinh tế, lao động có việc làm năm 2024 trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là 13,7 triệu người, chiếm 26,5% và giảm 79,7 nghìn người so với năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,4 triệu người, chiếm 33,4% và tăng 167,0 nghìn người; khu vực dịch vụ là 20,8 triệu người, chiếm 40,1% và tăng 497,8 nghìn người. Trong khi đó, số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 846,8 nghìn người, giảm 74,4 nghìn người so với năm 2023; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,84%; trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,28%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 2,20%1.

Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở đồng bằng sông Cửu Long là 16,4%, thấp nhất cả nước và thấp hơn tới 12% so với mức chung của cả nước. Nếu so sánh với các vùng kinh tế trọng điểm khác thì tỷ lệ này có sự chênh lệch khá lớn, tỷ lệ lao động qua đào tạo của đồng bằng sông Hồng là 39,6%; Đông Nam Bộ là 30%; Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 28,7%; Trung du và miền núi phía Bắc là 28% và Tây Nguyên là 19,2%2

Mặc dù quy mô lao động ở đồng bằng sông Cửu Long tương đối lớn nhưng chất lượng lao động, mức độ tạo việc làm phi nông nghiệp và hiệu quả sử dụng lao động trong khu vực kinh tế nông nghiệp còn hạn chế. Mặc dù các địa phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long ban hành nhiều cơ chế, chính sách để tạo việc làm cho người lao động, tuy nhiên, vẫn còn nhiều người lao động chưa tìm được việc làm đúng với chuyên môn, nghiệp vụ. Do đa phần lao động trong tỉnh có trình độ phổ thông hoặc trung cấp và cao đẳng nghề. Số lao động có trình độ đại học và sau đại học chiếm tỷ lệ rất ít trong tổng lao động của tỉnh. Vì vậy, nguồn nhân lực chỉ được đáp ứng cho nhu cầu trước mắt của các ngành nghề có nhu cầu lao động ở trình độ thấp hoặc nhu cầu lao động phổ thông. Lực lượng lao động chưa qua đào tạo về chuyên môn kỹ thuật còn khá lớn. Một bộ phận không nhỏ người lao động tuy đã có bằng cấp, chứng chỉ học nghề nhưng sau khi được tuyển dụng các doanh nghiệp vẫn phải đào tạo bổ sung, thậm chí đào tạo lại đã tạo nên sự lãng phí nguồn lực xã hội do không gắn kết được cung và cầu trên trên thị trường lao động. 

Đây là vùng có nguồn cung lao động dồi dào nhưng tốc độ tăng lao động có xu hướng chậm lại và thậm chí giảm ở một số địa phương do tình trạng di cư lao động ra ngoài vùng, nhất là đến Đông Nam Bộ (tỷ lệ di cư của đồng bằng sông Cửu Long là 353,1 nghìn người, chiếm 57,4%), tỷ lệ sinh giảm nhanh, già hóa dân số xuất hiện ở nhiều tỉnh. Điều này gây trở ngại lớn cho sự phát triển bền vững của vùng, nếu không có các giải pháp hay động lực mới để hạn chế tình trạng xuất cư cao như hiện nay, lợi thế về nguồn cung lao động dồi dào trong vùng sẽ nhanh chóng mất đi. Báo động hơn, tỷ lệ xuất cư hiện nay thường tập trung vào lực lượng lao động dưới 35 tuổi, bao gồm cả nhóm lao động có chuyên môn, dẫn đến lực lượng lao động còn lại có xu hướng ngày càng già hóa, kỹ năng thấp, thiếu linh hoạt và sẽ là gánh nặng cho vùng đồng bằng sông Cửu Long trong trung và dài hạn…

Ngoài ra, lao động ở vùng đang đối diện với thực trạng thất nghiệp, thiếu việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp của người lao động trong độ tuổi lao động là 2,93%, cao hơn 0,69% so với cả nước. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở thành thị là 3,57% và nông thôn là 2,69%; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở nữ lại cao hơn nam (nữ là 3,45%; nam là 2,56%)3

Lao động của vùng tập trung chủ yếu ở nông nghiệp, tỷ lệ lao động nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long cao hơn mức trung bình cả nước khoảng 10 – 12%, trong khi đó, công nghiệp và dịch vụ phát triển chậm, không đủ hấp thụ lượng lao động dư thừa từ nông nghiệp. Điều này cho thấy, sự chuyển dịch cơ cấu lao động chưa tương thích với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm hạn chế khả năng nâng cao năng suất và thu nhập. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ thấp hơn mức bình quân cả nước (năm 2024: 28,4%), trong khi ở đồng bằng sông Cửu Long là khoảng 18 – 20%. Nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống giáo dục nghề nghiệp chưa gắn kết với doanh nghiệp, việc đào tạo nghề thiếu thực tiễn, đào tạo trùng lặp, không theo nhu cầu thị trường. Người lao động có xu hướng học nghề ngắn hạn, ít học nghề kỹ thuật… Đây là rào cản lớn trong việc nâng cao năng suất lao động.

Các yếu tố tác động đến việc làm tại đồng bằng sông Cửu Long là do biến đổi khí hậu và suy giảm sinh kế. Đây cũng là vùng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ xâm nhập mặn, nước biển dâng, sạt lở bờ sông, bờ biển, hạn hán kéo dài… Điều này làm giảm tỷ lệ sử dụng đất nông nghiệp, giảm năng suất cây trồng. Lao động mất việc, phải chuyển nghề nhưng thiếu kỹ năng phù hợp. Trong khi đó, công nghiệp – dịch vụ chậm phát triển do cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, logistics yếu, chi phí vận chuyển cao, thiếu nhà đầu tư lớn, thị trường lao động chưa đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp… dẫn đến làm hạn chế khả năng tạo việc làm phi nông nghiệp.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, vùng có nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đang đối mặt với nhiều thách thức do đây là vùng đất mẫn cảm với những thay đổi của tự nhiên. Trong khiđó, chất lượng giáo dục vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế; nhân lực chất lượng cao đang có xu hướng dịch chuyển sang các địa phương khác… Đây cũng là những trở ngại lớn cho sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng. 

3. Giải pháp nhằm tạo việc làm bền vững cho người lao động vùng đồng bằng sông Cửu Long

Nhận thức được tầm quan trọng này, Nghị quyết số 306/NQ-CP ngày 05/10/2025 của Chính phủ về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, nhấn mạnh: “Phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt 9,0 – 9,5%/năm giai đoạn 2026 – 2030. Phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long thành trung tâm kinh tế nông nghiệp hiện đại, bền vững, năng động và hiệu quả cao của cả nước, khu vực và thế giới”, từ đó đưa ra những tiền đề quan trọng, tạo động lực để thúc đẩy kinh tế – xã hội của vùng phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới.

  Nhìn chung, việc làm của người lao động ở đồng bằng sông Cửu Long đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ nhưng còn nhiều thách thức. Bối cảnh biến đổi khí hậu, năng suất lao động thấp và di cư lao động cao đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tái cấu trúc mô hình phát triển kinh tế của vùng. Việc nâng cao chất lượng việc làm phụ thuộc vào năng lực chuyển dịch cơ cấu lao động sang các ngành có giá trị gia tăng cao, đào tạo nghề theo nhu cầu thị trường và đầu tư vào hạ tầng hỗ trợ sản xuất, đặc biệt logistics.

Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức toàn xã hội về vấn đề tạo việc làm cho người lao động.

Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị trong công tác tạo việc làm cho người lao động. Mặt khác, các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long cần tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về tạo việc làm cho người lao động trên các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là qua các kênh mạng xã hội, như: Facebook, Zalo, qua kênh Infographic, KOL…, nhằm nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề tạo việc làm, góp phần nâng cao thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả các vấn đề về quan hệ hài hòa, ổn định, tiến bộ giữa lao động với doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi để người lao động có việc làm và thu nhập ổn định, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động.

Hai là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước để tạo việc làm cho người lao động.

Chính quyền địa phương cần đẩy mạnh thu hút nhà các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các ngành, lĩnh vực mà tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế – xã hội, qua đó tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, đề án theo hướng bền vững, phù hợp với thực tiễn kinh tế – xã hội của địa phương; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp, giảm tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp dưới 50% trên tổng số lao động của vùng. Tạo sự gắn kết giữa phát triển du lịch với công tác bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống ở các địa phương có thế mạnh, như: An Giang, Đồng Tháp và thành phố Cần Thơ để tạo nhiều làm việc cho lao động tại chỗ.

Ba là, phát triển mạng lưới giáo dục nghề nghiệp gắn với công tác giải quyết việc làm.

Chính quyền địa phương cần chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên cho các cơ sở đào tạo nghề; chú trọng giáo dục định hướng cho người lao động nhằm nâng cao tay nghề, ngoại ngữ, ý thức chấp hành pháp luật của người lao động. Tăng cường sự liên kết giữa doanh nghiệp với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và trung tâm dịch vụ việc làm, sàn giao dịch việc làm nhằm kết nối thị trường lao động, giúp cho nhiều lao động tìm được việc làm sau khi học nghề.Nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, nhất là về trình độ, kỹ năng nghề cho ngời lao động, bảo đảm thích ứng với điều kiện sản xuất mới, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội của vùng. 

Bốn là, nâng cao hiệu quả các chương trình, dự án phục vụ giải quyết việc làm cho người lao động.

Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án về đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho người lao động. Tăng cường hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hợp tác xã, tổ hợp tác, các mô hình Hội quán, hộ kinh doanh và người lao động được vay vốn để đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất – kinh doanh, được học nghề nhằm tạo việc làm bền vững. Chú trọng lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế gắn với tạo việc làm cho người lao động ở địa phương. Đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả công tác tư vấn, giới thiệu việc làmvà dạy nghề cho người lao động ở nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động học nghề, tìm kiếm việc làm.

Năm là, phát triển thị trường lao động và các hoạt động kết nối cung – cầu lao động ở trong nước.

Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động trong và ngoài nước, thông tin về thị trường lao động để người lao động chủ động tìm kiếm việc làm. Nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm dịch vụ việc làm, sàn giao dịch việc làm, tăng cường kết nối hệ thống sàn giao dịch việc làm của các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sống Cửu Long với TP. Hồ Chí Minh để giới thiệu việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, chú trọng nâng cao năng lực hoạt động của Trung tâm dịch vụ việc làm nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng hóa nội dung hoạt động, hướng đến chắp nối có hiệu quả cung và cầu trên thị trường lao động. Trung tâm dịch vụ việc làm cần chủ động nắm bắt thông tin về thị trường lao động của các nước trong Cộng đồng ASEAN nhằm gắn kết giữa đào tạo với nhu cầu của thị trường lao động quốc tế.

Sáu là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong lĩnh vực việc làm.

Nâng cao hiệu quả chương trình đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng gắn với các định hướng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Chú trọng phát triển và mở rộng mô hình đào tạo nghề chất lượng cao thông qua hệ thống đào tạo của các nước phát triển trên thế giới. Tiếp thu kinh nghiệm quốc tế về giáo dục nghề nghiệp; triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản hợp tác về đào tạo, nghiên cứu khoa học được ký kết với các đối tác trong khu vực ASEAN và thế giới. Chú trọng công tác tuyển chọn, đào tạo và tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thực hiện đúng pháp luật lao động của nước ngoài, giải quyết tốt những phát sinh có liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động. 

4. Kết luận

Nhìn chung, công tác tạo việc làm cho người lao động đã đạt được những kết quả tích cực, số việc làm và thu nhập không ngừng được tăng lên, qua đó đời sống vật chất và tinh thần của người lao động ở đồng bằng sông Cửu Long ngày càng nâng cao. Kết quả này là do các địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị trong công tác tạo việc làm cho người lao động; đẩy mạnh phát triển kinh tế, thu hút đầu tư để tạo việc làm cho người lao động; phát triển mạng lưới giáo dục nghề nghiệp gắn với công tác giải quyết việc làm; nâng cao hiệu quả các chương trình, dự án phục vụ giải quyết việc làm cho người lao động; phát triển thị trường lao động và các hoạt động kết nối cung và cầu lao động ở thị trường trong và ngoài nước… để tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, từ đó đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng.

Chú thích:

1. Thông cáo báo chí về tình hình lao động, việc làm quý IV và năm 2024. https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/thong-cao-bao-chi-ve-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-iv-va-nam-2024/

2, 3. Cục Thống kê (2025). Niên giám thống kê năm 2024. H. NXB Thống kê, tr. 183 – 184, 191 – 192.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

2. Chính phủ (2025). Nghị quyết số 306/NQ-CP, ngày 05/10/2025 của Chính phủ về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

3. Phạm Ngọc Hòa (2022). Một số vấn đề kinh tế – xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. H. NXB Đại học Cần Thơ.