TS. Hồ Thị Hà
TS. Nguyễn Thị Bạch Tuyết
Đại học Cần Thơ
(Quanlynhanuoc.vn) – Tài nguyên nước vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện đang đối mặt với nhiều thách thức biến đổi khí hậu lớn trong lịch sử hình thành, bao gồm: sự xâm nhập mặn, suy giảm nguồn nước ngọt, ô nhiễm nước, sạt lở bờ sông, khí hậu cực đoan. Bài viết phân tích thực trạng an ninh nguồn nước tác động đến sinh kế, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, từ đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước cho vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Từ khóa: Tài nguyên nước; an ninh nguồn nước; sinh kế người dân; đồng bằng sông Cửu Long.
1. Đặt vấn đề
Biến đổi khí hậu đã và đang đặt đồng bằng sông Cửu Long trước những mối đe dọa nghiêm trọng, trong đó đặc biệt là vấn đề an ninh nguồn nước. Có 4 nhóm nguy cơ chính liên quan đến an ninh nguồn nước ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, gồm: (1) Thay đổi dòng chảy lũ thượng lưu, gây khô hạn, xâm nhập mặn; (2) Xói lở, sụt lún bờ sông, ngập lụt; (3) Sự suy giảm tài nguyên nước do khai thác quá mức và ô nhiễm môi trường nước dẫn đến thoái hóa đất. Cả bốn nhóm nguy cơ này đều gây ra những bất lợi cho sản xuất nông nghiệp và sinh kế của người dân đòi hỏi phải có những giải pháp mang tính chiến lược để đồng bằng sông Cửu Long phát triển “thuận thiên” và bền vững.
2. Thực trạng an ninh nguồn nước tác động đến sinh kế người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long
Một là, thay đổi dòng chảy lũ thượng nguồn gây khô hạn và quá trình xâm nhập mặn.
Đồng bằng sông Cửu Long được các nhà khoa học cảnh báo là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu. Theo “Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng ở Việt Nam” của Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường, mực nước biển vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiếp tục tăng thêm 12 cm vào năm 2020; 17 cm vào năm 2030; 30 cm vào năm 2050 và 75 cm vào năm 2100. Riêng khu vực từ Cà Mau đến Kiên Giang là nơi có mực nước biển tăng nhiều nhất, đến 105 cm. Ước tính vào cuối thế kỷ XIX, vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể mất khoảng 39% diện tích do ngập nước và xâm nhập mặn, 35% dân số bị ảnh hưởng1.
Biến đổi khí hậu cùng với việc xây dựng và vận hành các đập thủy điện ở thượng lưu (Trung Quốc, Thái Lan, Lào,…) làm thay đổi đặc trưng dòng chảy, giảm tổng lượng nước, giảm lượng phù sa bùn cát, chất dinh dưỡng, sản lượng đánh bắt thuỷ sản và tác động xấu tới hệ đa dạng sinh học. Phân tích dữ liệu trong mấy năm qua cho thấy, lưu lượng nước trên sông Mekong về đồng bằng sông Cửu Long ở mức dưới 1.600m3/s, giảm trên 1.200m3/s so với mức bình quân trong quá khứ. So với năm 1990 khi hệ thống sông ngòi ở đồng bằng sông Cửu Long đưa ra biển 160 triệu tấn phù sa hàng năm, thì đến nay đã giảm hơn phân nửa, gây thiệt hại trầm trọng đến viễn cảnh sống còn của vùng đồng bằng2. Quá trình xây dựng và vận hành các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong đã làm cho lưu lượng nước về đồng bằng sông Cửu Long đã ít đi một cách đáng kể, nhất là vào mùa khô. Nước ít sẽ không thể điều hòa tự nhiên hệ thống kênh rạch đến các vùng xa dòng chính, do vậy càng đẩy quá trình nhiễm phèn, mặn ở đồng bằng sông Cửu Long diễn ra nhanh và mạnh hơn.
Dưới tác động của biến đổi khí hậu và tình trạng thay đổi dòng chảy của sông Mekong đã làm cho quá trình xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long diễn ra ngày càng gay gắt, đặc biệt là các tỉnh vùng ven biển. Theo số liệu thống kê cho thấy, xâm ngập mặn đi sâu vào nội địa đến 60 km, cá biệt có chỗ lên đến 90 km. Điều này đã gây ra hậu quả cho đồng bằng sông Cửu Long với hơn 300.000 ha lúa, hoa màu và hàng nghìn ha nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại nặng nề3. Quá trình xâm nhập mặn gia tăng đã tác động mạnh đến các hệ sinh thái nông nghiệp truyền thống, làm giảm năng suất, chất lượng, sản lượng của nhiều loài sinh vật và gây khó khăn cho đời sống của con người.
Trước đây, mùa lũ bình thường về hồ Tonle Sap của Campuchia 7 tháng/năm, từ đầu tháng 4 đến hết tháng 10. Mùa khô, hồ chỉ rộng khoảng 2.700 km2 và sâu trung bình 1m, mùa mưa cùng với nước từ Mekong đổ vào làm cho diện tích hồ mở rộng tới 16.000 km2 (gấp 6 lần so với mùa khô) và sâu 10m, vì thế lượng nước trong hồ vào mùa mưa tăng lên 80 lần (lên đến khoảng 80 km3) so với mùa khô (chỉ khoảng 1 km3)4. Hồ Tonlé Sap đóng vai trò điều hòa nước tự nhiên cho sông Mekong ở hạ nguồn. Tuy nhiên hiện nay Hồ Tonlé Sap mất dần chức năng điều hòa, đồng thời làm giảm lượng thủy sản đổ về đồng bằng sông Cửu Long, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống người dân nơi đây. Tất cả sinh kế gắn với nước lũ, như: trồng “lúa trời Đồng Tháp Mười”; nguồn lợi thủy sản của mùa nước lũ như cá linh An Giang sẽ giảm dần. Hệ thống đập được xây dựng theo kiểu bậc thang sẽ giữ lại hầu hết lượng phù sa vốn làm giàu đất cho vùng đồng bằng châu thổ và cho hồ Tonlé Sap dẫn đến nước về đồng bằng sông Cửu Long sẽ trong hơn. Nước trong không chỉ không tốt đối với cây lúa mà còn không tốt đối với nguồn lợi thủy sản, cá tôm sẽ không còn dồi dào như trước. Phù sa ít đi thì việc bồi đắp cho vùng cửa sông và bán đảo Cà Mau sẽ chậm lại. Sạt lở bờ biển ở xã Đất Mũi, Ngọc Hiển, Cà Mau sẽ tăng lên.
Do độ cao trung bình của đồng bằng sông Cửu Long tương đối thấp, chỉ từ 1 – 3 mét so với mực nước biển. Cùng với biến đổi khí hậu, trái đất nóng lên, mực nước biển dâng lên, triều cường ngày một cao hơn trong khi nước ngọt từ thượng nguồn về ít đi, nước mặn sẽ xâm nhập ngày càng sâu vào trong đất liền. Mùa khô những năm 2016, 2019, 2020, 2023, chứng kiến liên tục các kỷ lục nước mặn xâm nhập theo Sông Tiền Giang vào 70, 90 và hơn 100 km tính từ cửa biển. Tần suất của các đợt ngập mặn này sẽ dày hơn và sâu hơn. Nước mặn xâm nhập làm cho tất cả các cây trồng truyền thống, như lúa và trái cây sẽ không chịu đựng được. Nước ngập mặn biến các vùng nước ngọt thành nước lợ và vùng nước lợ thành nước mặn. Các khu nuôi thủy sản nước ngọt, lợ trên sông sẽ phải bỏ hoang và lấn dần vào ruộng trồng lúa…
Hai là, xói lở, sụt lún bờ sông và triều cường
Theo đánh giá của các nhà khoa học, lượng trầm tích đến đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 56 – 64% so với trung bình tự nhiên. Sự cạn kiệt trầm tích dẫn đến đói trầm tích ở khu vực hạ lưu, làm cho hiện tượng xói lở và sạt lở bờ sông xảy ra ngày càng gia tăng. Cụ thể, nếu năm 2014 đồng bằng sông Cửu Long có 99 điểm xói lở và sạt lở bờ thì đến năm 2024 đã tăng lên 681 điểm, tức tăng gần gấp 7 lần so với 2010 (tăng 582 điểm). Theo thống kê, tốc độ sạt lở bờ sông và bờ biển ngày càng mạnh. Bình quân mỗi năm đồng bằng sông Cửu Long mất chừng 550 ha đất tự nhiên do sạt lở. Tình trạng sạt lở xảy ra nhiều trong giai đoạn chuyển mùa (từ mùa mưa sang mùa nắng)5.
Nguyên nhân chính là do đồng bằng sông Cửu Long được hình thành do phù sa sông Mê kông bồi đắp nên có cấu tạo địa chất rất yếu và dễ bị tổn thương trước bất kỳ tác động nào của tự nhiên hay con người. Đặc biệt, hoạt động khai thác cát quá mức cũng là nguyên nhân chính làm thay đổi do dòng chảy và thủy triều; thiếu hụt bùn cát đáy sông và chất thải trên bờ sông đã làm cho sạt lở bờ sông nhanh hơn.
Cùng với sạt lở bờ sông, tình trạng triều cường cũng trở nên nghiêm trọng. Khác hẳn so với mùa nước nổi trước đây, cường suất lũ ở đồng bằng sông Cửu Long nhanh hơn, lượng nước đổ về lớn hơn, diện tích ngập lụt tăng hơn và thời gian ngập lụt lâu hơn, gây thiệt hại và trở ngại đến mọi mặt hoạt động và đời sống của dân cư trong vùng. Ngập lụt ở miền Tây không phải do nước lũ đổ về, bởi mực nước đo được ở đầu nguồn đều đang ở mức thấp. Chính biến đổi khí hậu, nước biển dâng đã làm cho mực triều dâng cao bất thường. Kể cả chân triều và đỉnh triều đều cao hơn mức trung bình trước đây từ 15 – 16 cm6.
Theo các nhà khoa học, có hai nguyên nhân chính gây nên triều cường ngày càng dâng cao là nước biển dâng và đặc biệt là tình trạng sụt lún mặt đất. Ước tính đồng bằng hiện đang bị lún trung bình khoảng 1,1 cm mỗi năm, do tình trạng khai thác nước ngầm quá mức, khai thác cát và suy giảm phù sa. Ở đồng bằng sông Cửu Long, việc khai thác nước ngầm từ vài trăm nghìn m3/ngày đêm vào năm 1991 đến nay đã tăng gần 2,5 triệu m3, khiến quá trình sụt lún càng nghiêm trọng. Hiện trạng này đang đe dọa lớn tới sự sống còn của đồng bằng sông Cửu Long. Gần một nửa diện tích của đồng bằng có thể bị nhấn chìm nếu mực nước biển dâng 75 – 100 cm so với mức của những năm 1980 – 19997.
Ba là, suy giảm tài nguyên nước do khai thác quá mức và ô nhiễm môi trường nước dẫn đến thoái hóa đất
Cùng với vấn đề suy giảm dòng chảy, xâm nhập mặn và nguy cơ ô nhiễm xuyên biên giới, nguồn nước trong vùng đồng bằng sông Cửu Long còn chịu áp lực bởi các hoạt động phát triển kinh tế nội tại trong vùng, như: nước thải sinh hoạt từ các đô thị, nuôi trồng thủy sản, chế biến thủy hải sản, chăn nuôi, trồng trọt và các hoạt động công nghiệp cũng đang có những tác động đáng kể đến chất lượng các nguồn nước.
Áp lực về gia tăng dân số và phát triển kinh tế – xã hội: dự báo dân số trong vùng có thể tăng từ 17,4 triệu (2023) lên đến khoảng 30 triệu (2050), công nghiệp hóa và đô thị hóa sẽ ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng nước sạch và phát sinh nhiều nước thải nhiều hơn. Theo quy hoạch tài nguyên nước quốc gia8, nhu cầu nước đến năm 2030 là khoảng 58,1 tỷ m3 và đến năm 2050 là khoảng gần 58,8 tỷ m3. Điều này, gây áp lực lớn đối với nguồn nước của đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là giải quyết vấn đề nước ngọt, ô nhiễm nguồn nước nhất là ở các kênh, rạch nhỏ, chảy qua các khu đô thị, khu công nghiệp.
Đồng thời, thế mạnh của đồng bằng sông Cửu Long là sản xuất nông nghiệp, theo nghiên cứu của Đại học Cần Thơ ước tính, để có 1 tấn lúa gạo sẽ phải sử dụng đến 4000 m3 nước, vì vậy, mỗi năm đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiêu thụ xấp xỉ 100 tỉ m3 nước cho gần 25 triệu tấn lúa. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất nông nghiệp và thủy sản, đồng bằng sông Cửu Long đã đẩy mạnh khai thác nguồn nước, điều này dẫn đến mực nước dưới đất đang bị hạ thấp. Theo số liệu quan trắc của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong giai đoạn từ 2003 – 2024 cho thấy: mực nước trung bình hiện tại của các tầng chứa nước trong vùng khoảng 13,54 ÷7,25 m (trong đó tầng qp3: 7,25 m; qp23: 7,70 m; qp1: 11,20 m; n22: 12,38 m; n21: 13,54 m)9.
Ngoài ra, nguồn nước ở một số nơi tại đồng bằng sông Cửu Long đang bị ô nhiễm do các nguồn nước hằng ngày phải tiếp nhận một lượng lớn nước thải sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, đặc biệt nước thải sinh hoạt được thu gom, xử lý trước khi xả ra nguồn nước mới chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ; việc thâm canh tăng vụ trong trồng trọt cũng đồng nghĩa với việc tăng lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật kéo theo đó là một lượng dư thừa phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trong môi trường nước cũng tăng lên; hoạt động nuôi trồng thủy sản là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm nước cục bộ trên các sông vùng đồng bằng sông Cửu Long, chất thải phát sinh trong quá trình nuôi, quá trình vệ sinh, nạo vét ao nuôi và dịch bệnh thủy sản gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng các nguồn nước mặt.
Điều này dẫn đến đồng bằng sông Cửu Long ở trong tình trạng thiếu nước ngọt nghiêm trọng, gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất và đời sống. Hàng triệu người dân trong vùng đứng trước nguy cơ bị mất sinh kế, mất việc làm, mất thu nhập, trở thành dân “tỵ nạn môi trường”, buộc phải di cư kiếm sống do không thể sinh sống trên chính mảnh đất của mình.
Đơn cử: giai đoạn từ 2010 – 2020, đồng bằng sông Cửu Long có 1,1 triệu người xuất cư lên các tỉnh miền Đông Nam Bộ, đến giai đoạn 2020 – 2024, tỷ lệ xuất cư của vùng đồng bằng sông Cửu Longcó những biến động, tăng nhanh từ 11,8% (2020) lên 13,8 (2021), đột ngột giảm năm 2022 xuống còn 5,2%. Nhưng từ 2022 – 2024 lại tăng đều trở lại 1%/năm. Trong đó, các địa phương, như: Trà Vinh, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Cà Mau là những địa phương có tỷ lệ xuất cư cao10. Điều này, phản ánh tác động của biến đổi khí hậu nói chung và an ninh nguồn nước nói riêng đến sinh kế người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long rất lớn, dẫn đến tình trạng thiếu lao động và làm già hóa lực lượng lao động ở nơi đi càng nghiêm trọng hơn. Vì vậy, chỉ số già hóa của vùng đồng bằng sông Cửu Long năm 2019 là 58,5%, đến năm 2024 tăng lên 76,8%, chiếm tỷ trọng chỉ số già dân số cao nhất của cả nước11.
3. Một số giải pháp
a. Đối với Đảng, Nhà nước
Để chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào thực tiễn và trở thành đòn bẩy thúc đẩy vùng đồng bằng sông Cửu Long phát triển, cần:
(1) Kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với chính quyền các tỉnh/ thành vùng đồng bằng sông Cửu Long trong việc giải quyết vấn đề an ninh nguồn nước, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, cảnh báo nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường..
(2) Tăng cường nguồn lực tài chính hỗ trợ vùng đồng bằng sông Cửu Long trong việc xây dựng các công trình thủy lợi, như: đê ngăn mặn, các trạm quan trắc cảnh báo mặn, lũ… Đặc biệt, phải tham vấn chặt chẽ với các nhà khoa học trong và ngoài nước, chuẩn bị những điều kiện tốt nhất, chủ động xây dựng các hồ, đập trữ nước ngọt trước các mối đe dọa an ninh nguồn nước của các đập thủy điện ở thượng nguồn và kênh đào Phù Nam Techo ở Campuchia.
(3) Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ tài nguyên môi trường, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay.
(4) Tăng cường phối hợp chặt chẽ với Ủy ban sông Mekong (Mekong River Commission) đẩy mạnh liên kết vùng trong khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và thực thi các công ước quốc tế liên quan đến môi trường nhằm theo dõi, xử lý những hoạt động bất lợi trên sông Mekong. Điều này sẽ giúp Đảng, Nhà nước nhanh chóng, kịp thời đề ra các đường lối, chính sách bảo đảm an ninh nguồn nước, bảo đảm sinh kế bền vững cho người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long.
b. Đối với chính quyền các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long
(1) Chỉ đạo các cơ quan chức năng chủ động tiến hành điều tra, nghiên cứu có hệ thống nguồn tài nguyên nước trên toàn vùng, kết hợp chặt chẽ với các nhà khoa học, thường xuyên cập nhật thông tin, kết quả điều tra, nghiên cứu mới của giới khoa học để có sự đánh giá đầy đủ về an ninh nguồn nước trước tác động của biến đổi khí hậu. Điều này giúp các tỉnh, thành phố sớm đưa ra các dự án kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, ngăn ngừa suy thoái nước ngầm, phát triển bền vững tài nguyên nước.
(2) Tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường đến từng doanh nghiệp và mỗi người dân.
(3) Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, cây trồng, vật nuôi thích hợp, ứng phó với biến đổi khí hậu (tưới tiết kiệm nước, lai tạo giống lúa chịu mặn, chịu hạn, chịu ngập) và tình trạng khan hiếm nguồn nước ngọt, xâm nhập mặn gia tăng và ảnh hưởng của lũ kết hợp triều cường trong khu vực. Phát triển đồng bộ hệ thống các đô thị, khu dân cư và hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo hướng thân thiện với môi trường sinh thái gắn với đồng ruộng, miệt vườn, sông nước và biển đảo.
(4) Chủ động khảo sát, huy động vốn xã hội hóa để xây dựng các công trình thủy lợi kiên cố bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai; đặc biệt là hệ thống đê kè, cống đập thoát lũ và ngăn mặn, các công trình xử lý các chất thải, các trạm cảnh báo thiên tai (nước dâng, ngập lụt, sa bồi, xói lở, xâm nhập mặn,…). Tiến hành định kỳ các hoạt động quan trắc, giám sát tài nguyên và môi trường để chủ động và cảnh báo người dân ứng phó kịp thời trước những bất thường của biến đổi khí hậu.
c. Đối với người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long
(1) Nâng cao nhận thức về bảo vệ nguồn nước như bảo vệ chính mạng sống của mình, bởi khi an ninh nguồn nước bị đe dọa, sinh kế của người dân sẽ không còn bền vững. Cần phải có ý thức hơn trong sinh hoạt hằng ngày và sản xuất nông nghiệp, chấm dứt tình trạng xả rác bừa bãi để ngăn chặn tình trạng ô nhiễm nguồn nước.
(2) Không ngừng học hỏi nâng cao trình độ, chủ động ứng dụng các tiến bộ của khoa học và công nghệ vào quá trình sản xuất, tận dụng và khai thác tối đa lợi thế của tài nguyên nước, khắc phục được những ảnh hưởng tiêu cực từ biến đổi khí hậu, biến bất lợi từ xâm nhập mặn thành tiềm năng trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản.
(3) Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tư vấn và khuyến nghị của các nhà khoa học, vận dụng các mô hình sản xuất nông nghiệp, thủy sản theo hướng “thuận thiên”.
4. Kết luận
Biến đổi khí hậu cùng việc thay đổi dòng chảy sông Mekong đã đặt đồng bằng sông Cửu Long trước những thách thức to lớn về an ninh nguồn nước và sinh kế bền vững của người dân. Giải quyết những thách thức nêu trên đòi hỏi phải có chiến lược toàn diện và lâu dài, cần sự vào cuộc của cả xã hội, từ Trung ương đến địa phương và sự đồng tâm của mọi tầng lớp nhân dân vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ có như vậy mới tạo ra sức mạnh nội sinh, giúp đồng bằng sông Cửu Long vượt qua những khó khăn, thử thách, vươn lên phát triển bền vững.
Chú thích:
1. Liên kết vùng trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam. https://pim.vn/lien-ket-vung-trong-ung-pho-voi-bien-doi-khi-hau-o-viet-nam-qua-nghien-cuu-truong-hop-dong-bang-song-cuu-long-3/.
2. Quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước vùng đồng bằng sông Cửu Long. https://nangluongsachvietnam.vn/d6/vi-VN/news/Quan-ly-su-dung-hieu-qua-tai-nguyen-nuoc-vung-dong-bang-song-Cuu-Long-6-1951-17876.
3. Nguyên nhân và sự ảnh hưởng của xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long. https://kinhtevadubao.vn/nguyen-nhan-va-su-anh-huong-cua-xam-nhap-man-o-dong-bang-song-cuu-long-31548.html
4. Vai trò của hồ Tonle Sap trong việc cung cấp nước vào vùng đồng bằng sông Cửu Long trong mùa cạn. http://wri.vn/Pages/vai-tro-cua-ho-tonle-sap-trong-viec-cung-cap-nuoc-vao-vung-dong-bang-song-cuu-long-trong-mua-can.
5. Sạt lở sông, biển ở đồng bằng sông Cửu Long. Thực trạng và những vấn đề đặt ra cho giai đoạn tới. https://nnmt.net.vn/sat-lo-song-bien-o-dong-bang-song-cuu-long-thuc-trang-va-nhung-van-de-dat-ra-cho-giai-doan-toi
6, 7. Đồng bằng sông Cửu Long: Triều cường dâng kỷ lục – biến đổi khí hậu đang “nóng dần”. https://daidoanket.vn/dong-bang-song-cuu-long-trieu-cuong-dang-ky-luc-bien-doi-khi-hau-dang-nong-dan-10138148.html.
8. Tài nguyên nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Thách thức và giải pháp. https://nnmt.net.vn/tai-nguyen-nuoc-vung-dong-bang-song-cuu-long-thach-thuc-va-giai-phap
9. Thách thức sạt lở và sụt lún tại Đồng bằng sông Cửu Long. https://moitruong.net.vn/thach-thuc-sat-lo-va-sut-lun-tai-dong-bang-song-cuu-long-81523.html
10. Cục Thống kê (2024). Niên giám Thống kê năm 2024. H. NXB Thống kê, tr. 140.
11. Dân số Việt Nam tiếp tục già hóa. https://vnexpress.net/dan-so-viet-nam-tiep-tuc-gia-hoa-4837035.html.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Chính phủ (2017). Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.
3. Tý. T. V; Thuận. T. M; Tuấn. L. A. (2016). Tài nguyên nước vùng đồng bằng sông Cửu Long. NXB. Đại học Cần Thơ.
4. VCCI và Fulbright (2022). Báo cáo kinh tế thường niên đồng bằng sông Cửu Long 2022: Chuyển đổi mô hình phát triển và quy hoạch tích hợp. NXB. Đại học Cần Thơ.
5. An sinh xã hội cho nông dân trong bối cảnh biến đổi khí hậu: kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho đồng bằng sông Cửu Long. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/10/02/an-sinh-xa-hoi-cho-nong-dan-trong-boi-canh-bien-doi-khi-hau-kinh-nghiem-quoc-te-va-goi-mo-cho-dong-bang-song-cuu-long/



